Một trong những kinh điển nghiên cứu về Phật học của người học Phật, Kinh Pháp Cú được xem như là một bản tóm tắt truy cập những lời dạy của Đức Phật để đưa con người tự đến khám phá sự thật cho chính mình.
Pháp Cú tiếng Pāli gọi là Dhammapada và Phạn ngữ : dharmapāda viết theo mẩu devaganari : धर्मपद,.
Dhammapada có nghĩa là một bộ sưu tập những câu nói và những tục ngữ ngắn của Đức Phật qua hình thức thơ bao gồm nghĩa lý thâm thiết về mặt đạo đức, trách nhiệm cá nhân, kiểm soát cảm xúc và ham muốn, giảm đau khổ, buồn phiền, và cách nuôi dưỡng tâm trí yên tĩnh.
Kinh Pháp Cú có một truyền thống lâu đời được dạybằng cách truyềnmiệng cho những người xuất gia cũng như tại gia. Những câu thơ trong Kinh Pháp Cú là một phần trí tuệ của dân gian, và một số câu sáo ngữ của nó là một phần của nền văn hóa.
Các phiên bản viết tay đầu tiên hiện có của kinh Pháp Cú là cuộn vỏ cây bạch dương được tìm thấy trong lọ đất sét được chôn trong một tu viện ở miền Đông Afghanistan. Những bản viết tay cổ xưa, được gọi là "Gandhāran (nội dung) " hay "Kharosthi (bản thảo) hiện đang thuộc sở hữu của Thư viện Bảo tàng Anh quốc. Các nhà khảo cổ và học giả Phật học đã được ước tính rằng những bản thảo này có từ khoảng 100 CE.
Có vài giả thuyết cho rằng kinh Pháp Cú được các tu sĩ Phật giáo, học giả, Buddhaghosa, bố trí kinh thành 423 câu trong 26 chương, và dựa theo 305 câu chuyện dụ ngôn mà cho một số bối cảnh vào những câu đó vào khoảng thế kỷ V CE.
Phiên bản Kinh Dharmapada của Tây Tạng trong đó bao gồm 1.000 câu thơ và 33 chương. Ngày nay hầu như tất cả những bản dịch của kinh Pháp Cú bao gồm 423 câu thơ được sắp xếp thành 26 chương.
Một trong những bản dịch được công bố sớm nhất của kinh Pháp Cú từ tiếng Pali sang tiếng Anh đã được phê chuẩn bị bởi học giả Friedrich Max Müller là năm 1869. Phiên bản Kinh Dharmapada của Tây Tạng có nguồn tiếng Phạn, gọi là Udanavarga, do một nhà sư kim học giả tên là Dharmatrata biên soạn khoảng năm 200 CE, được WW Rockhill dịch sang tiếng Anh lần đầu tiên năm 1892. Các phiên bản Kinh Pháp Cú của Trung Quốc về Kinh Pháp Cú đã được Samuel Beal dịch sang tiếng Anh vào năm 1878.
Tóm lại: Kinh Pháp Cú là một trong những cuốn sách phổ biến nhất và dễ tiếp cận trong tất cả văn học Phật giáo. Trong đó là những lời của Đức Phật, dạy rằng tất cả khổ đau bắt nguồn từ mong muốn và cách để đạt được tự do là để thanh tẩy tâm và làm theo con đường của sự thật.
Kinh Pháp Cú, trong tiếng Pali: Dhammapada là do hai chữ ghép lại Dhamma là Pháp có nghĩa là sự thật, nguyên tắc, học thuyết Phật giáo, pháp luật, và kỷ luật, Pada có nghĩa là con đường, cách thức, bước chân.
Cuốn Kinh này gồm 26 Phẩm, 423 câu thơ, là cuốn thứ hai trong 15 cuốn thuộc Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka-Nikaya) trong Kinh tạng Pali và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Đây là tên các mục phẫm của Kinh Pháp Cú:
01 - Phẩm Song Yếu | Yamaka Vagga [n° 1 - 20]
02 - Phẩm Tinh Cần | Appamāda Vagga [n° 21 - 32]
03 - Phẩm Tâm Ý | Citta Vagga [n° 33 - 43]
04 - Phẩm Hoa Hương | Puppha Vagga [n° 44 - 59]
05 - Phẩm Ngu Si | Bāla Vagga [n° 60 -75]
06 - Phẩm Hiền Trí | Paṇḍita Vagga [n° 76 - 89]
07 - Phẩm A La Hán | Arahanta Vagga [n° 90 -99]
08 - Phẩm Muôn Ngàn | Sahassa Vagga [n° 100 - 115]
09 - Phẩm Ác Hạnh | Pāpa Vagga [n° 116 - 128]
10 - Phẩm Hình Phạt | Daṇḍa Vagga [n° 129 - 145]
11 - Phẩm Già Yếu | Jarā Vagga [n° 146 - 156]
12 - Phẩm Tự Ngã | Atta Vagga [n° 157 – 166]
13 - Phẩm Thế Gian | Loka Vagga [n° 167 - 178]
14 - Phẩm Phật Ðà | Buddha Vagga [n° 179 – 196]
15 - Phẩm An Lạc | Sukha Vagga [n° 197 - 208]
16 - Phẩm Hỷ Ái | Piya Vagga [n° 209 - 220]
17 - Phẩm Phẫn Nộ | Kodha Vagga [n° 221 - 234]
18 - Phẩm Cấu Uế | Mala Vagga [n° 235 - 255]
19 - Phẩm Pháp Trụ | Dhammaṭṭha Vagga [n° 256 -272]
20 - Phẩm Chánh Ðạo | Magga Vagga [n° 273 - 289]
21 - Phẩm Tạp Lục | Pakiṇṇaka Vagga [n° 290 - 305]
22 - Phẩm Ðịa Ngục | Niraya Vagga [n° 306 - 319]
23 - Phẩm Voi Rừng | Nāga Vagga [n° 320 - 333]
24 - Phẩm Tham Ái | Taṇhā Vagga [n° 334 - 359]
25 - Phẩm Tỳ Kheo | Bhikkhu Vagga [n° 360 - 382]
26 - Phẩm Bà La Môn | Brāhmaṇa Vagga [n° 383 - 423]
TS.Huệ Dân