- Tôi không hình dung được là những vị giáo thọ có được công nhận ở khắp nơi chăng. Một vài người bạn Tích Lan của tôi nói là chúng ta đã thêm vào một cấp bậc thọ giới. Nhưng họ nhìn nhận khi tôi nói cho họ biết là tôi xem những vị giáo thọ ngang hàng với các vị Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Đó là cách nhìn của tôi mà cũng là cách nhìn của Tiến sĩ Thiên Ân. Tôi thật không biết những người khác có lối nhìn thế nào.
v Nói chung là Ni sư có nghĩ giới Tăng lữ ở các quốc gia Phật giáo xem trọng đạo Phật Hoa Kỳ không?
- Tôi nghĩ là có. Nhiều người Á châu, khi mới lần đầu gặp gỡ những người Hoa Kỳ, không mường tượng được đạo Phật ở Hoa Kỳ. Họ cũng không có ý niệm nào về tác phẩm Phật pháp kỳ diệu được viết bằng Anh ngữ. Trong một chừng mực nào đó, họ nghĩ là chúng ta không hiểu biết đạo Phật theo cách thức mà họ hiểu biết, nhưng khi họ bắt đầu biết được là chúng ta thực sự hiểu biết như họ, thì họ thay đổi thái độ.
Xin kể cho con biết về hội nghị Phật giáo mà Ni sư mới vừa tham dự. Mục tiêu của hội nghị là gì?
Tôi đã tham dự Hội nghị Quốc tế Sakyadhita về Nữ giới theo Phật giáo (Sakyadhita International Conference on Buddhist Women) ở thành phố Kuala Lumpur, Malaysia. Khoảng một ngàn người tham dự, gồm chừng ba trăm Tỳ kheo ni từ vòng quanh địa cầu, và phần còn lại là các nữ Phật tử. Hội nghị được tô chức hai năm một lần. Nó bao gồm bất cứ điều gì cần làm cho và ủng hộ giới nữ tu, nhưng tất nhiên một trong những điều chánh yếu được nêu lên trong mỗi kỳ hội nghị là Ni đoàn Tỳ kheo ni, bởi vì nó không hiện có trong mỗi quốc gia.
- Ni sư có liên quan trong việc thành lập hội nghị này phải không?
- Đúng vậy. Tôi đã tham dự lần đầu vào năm 1987, được tổ chức tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ. Khi tôi nhận được thông báo về hội nghị, tôi nghĩ tham dư hội nghị quan trọng hơn là tham dự Hội Ái hữu Phật tử Thế giới (World Fellowship of Buddhists) bởi vì chưa từng có một hội nghị nào cho nữ giới theo Phật giáo trước đó. Vào ngay ngày cuối của hội nghị, chúng tôi nghĩ cách lam sao cho hội nghị được tổ chức thường xuyên và có mặt lâu dài. Chúng tôi đã biểu quyết lấy tên Sakyadhita vì nó có nghĩa là “những người con gái lành của Đức Thế Tôn” (daughters of the Buddha). Nữ tu sĩ Tây Tạng, Karma Lekshe Tsomo, và tôi được chọn cùng làm hội trưởng (copresidents) vào thời gian đó.
v Còn việc tạo cơ hội cho nữ giới theo Phật giáo ngồi lại với nhau có tầm mức quan trọng ra sao?
- Trước hết, hội nghị đã mở rộng tầm mắt của phu nữ Tây Tạng vì trước đó họ không hình dung nổi là phụ nữ Tây phương được truyền thụ Cụ túc giới cũng như có quá nhiều người Tây phương chúng tôi tại hội nghị đó. Họ cũng trở nên hân hoan mừng rỡ khi nhìn thấy các Tỳ kheo ni người Hoa Kỳ làm chủ được đời mình vì họ chưa từng thấy sự việc như thế bao giờ. Vẫn còn chưa có các Tỳ kheo ni trong Tăng đoàn Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma có đến tham dự và diễn thuyết. Ngài rất ủng hộ nữ giới, và co nhiều nữ tu sĩ cùng đi tham dự hội nghị với Ngài. Năm đó hội nghị được tổ chức bằng hai thứ tiếng, Anh ngữ và Tạng ngữ.
- Những đề tài nào nằm trong chương trình hội thảo tại kỳ hội nghị lần đầu?
- Lần đầu đó, chúng tôi không mấy chú ý đến Ni đoàn Tỳ kheo ni cho lắm, mà đúng hơn là làm thế nào để nữ giới có thể tự nâng cao mình lên, tại vì ở nhiều quốc gia, họ chỉ có vai trò thứ yếu.
Kỳ hội nghị thứ nhất đó cũng chính là lần đầu tiên các Tỳ kheo ni hiện diện có thể tụng đọc Pratimoksha (Tỳ kheo ni giới). Mỗi vị Tỳ kheo và Tỳ kheo ni phải thực thi nghi lễ tụng giới hai lần trong tháng vào những ngày trăng tròn (ngày rằm) và bán nguyệt (mùng một). Theo như Luật tạng, thì phải có mặt ít nhất là bốn vị thì mới được tụng giới, thế nên đây đúng là lần đầu mà tôi được tụng đọc Đại giới.
Vị chủ lễ phải là người trọng tuổi nhất, vì vậy mà tôi được cử ra để hướng dẫn nghi lê tụng giới.
-Vai trò của nữ giới trong nền Phật giáo thay đổi ra sao kể từ kỳ hội nghị thứ nhất hay là ngay tại thời điểm Ni sư thọ giới? Hiện thời Ni sư đã ở trong giáo đoàn được 35 năm, không có gì thay đổi cả sao?
- Ơ Hoa Kỳ, Tỳ kheo và Tỳ kheo ni hoàn toàn đồng đẳng như nhau. Tại tu viện Thiền Tào Động (Soto Zen Monastery) tọa lạc trên trái núi Shasta, hai phần ba là Ni, và một phần là Tăng. Họ gọi vị nào cũng là Tăng (monk), bất kể họ thuộc giới tính nào. Họ cũng đắp y áo như nhau, và làm công việc như nhau nếu có đủ khả năng.
Thích nữ Ân Từ là pháp tự (transmission name) của tôi, và Tiến sĩ Thiên Ân luôn muốn tôi xưng hô Thích nữ bởi vì chữ “nữ” theo sau chư “Thích” ngụ ý cho biết đây là pháp tự của một vị Ni. Tôi thưa, “Tiến sĩ Thiên Ân, tại sao thầy làm như vậy?”. Tiến sĩ giải đáp, “Tại vì nếu như tôi không gọi như vậy, rồi thì đâu ai biết cô là người nữ!”. Lúc đó tôi vẫn chưa hiểu thấu ý của Tiến sĩ muốn nói gì. Nhưng bây giờ tôi mới nhận ra rằng Tiến sĩ thật lấy làm hãnh diện về các nữ đệ tử, và Tiến sĩ muốn cho người ta biết đây là các Tỳ kheo ni, chứ không phải Tỳ kheo. Đây là các Tỳ kheo ni!
Xin cảm ơn Ni sư.
MitraTweti - Tâm Diệu Phú dịch
(Trích dịch từ Tricycle, Issue Winter 2006)
Nguồn: chuyenphapluan.com