Có một điều nữa cần phải minh chính. Đó là điều mà nhiều người tin là "triều đại nhà Lý là triều đại của Phật giáo". Điều đó đúng. Nhưng Phật giáo không giữ độc quyền thao túng văn hóa, rồi hắt hủi, không nâng đỡ các đạo giáo khác, như Khổng giáo và Lão giáo, để các đạo này không có cơ phát triển.
Lịch sử ghi triều đại nhà Lý là một triều đại văn minh thịnh trị.
Tháp Báo Thiên, một công trình kiến trúc Phật Giáo thời Lý |
Do đó ta có thể đi sâu tìm hiểu vào chi tiết các thành quả to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước mà nhà Lý đã gặt hái được cũng như đã gây duyên lành cho các triều đại kế tiếp như thế nào.
Không phải cố ý đề cao triều nhà Lý; nhưng lẽ phải bắt buộc chúng ta phải phán xét vô tư. Nhà Lý sở dĩ hình thành vẫn do công của các nhà ái quốc tiền bối qua các dòng họ triều đại trước thúc đẩy. Gần nhất là họ Ngô, Đinh và Tiền Lê đã trực tiếp mở đường tự trị, độc lập cho quốc gia. Mà sự hình thành nhà lý là do công của ba vị ái quốc, đó là các ngài: Vạn Hạnh, Đào Cam Mộc và Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn thì thụ động, trong khi Ngài Vạn Hạnh lo về mưu lược chỉ đạo, còn Đào Cam Mộc lo thi hành kế sách – vì lúc đó, họ Đào có thế lực binh quyền trong tay. Đào Cam Mộc tự biết phận mình nên không có lòng tham dùng bạo lực chiếm đoạt ngai vàng. Đó là điều quí. Lý Công Uẩn, đã làm quan rất lớn trong triều Tiền Lê, tới chức Tả – thân – vệ – điện – tiền – chỉ – huy – sứ, là người thừa tư cách và khả năng phục vụ quốc gia. Chính Lý Công Uẩn là vị quan duy nhất ở tại triều, sau khi vua Lê Trung Tôn bị Lê Long Đĩnh hạ sát; còn các quan khác thì sợ sệt chạy tứ tán hết.
Cứ công minh mà nói thì Lý Công Uẩn quả là vị quan chính trực, đạo hạnh, can đảm, có khả năng đứng trước các biến cố nguy hiểm và bất ngờ mà vẫn bình tĩnh sáng suốt hành động. Lý Công Uẩn không cần phải dùng thế lực đình thần của mình để đoạt ngôi. Đó cũng là một điều quí. Ngài Vạn Hạnh đưa đệ tử của mình lên ngôi là đã làm một việc hợp lý vì thầy hiểu trò hơn ai khác, hơn nữa, chính cá nhân học trò, đệ tử của mình đã tham chính, có kinh nghiệm điều khiển việc nước, nhất là đủ điều kiện về đạo hạnh cũng như thể chất của tuổi trung niên.
Ai ở trường hợp ngài Vạn Hạnh cũng đều phải làm như vậy. Nên việc làm của ngài là một sự hợp lý rất đáng quí. Giả thử ngài Vạn Hạnh và Đào Cam Mộc không chịu giúp Lý Công Uẩn lên ngôi thì trong triều đình (cũ) cũng chẳng có ai có thể thay thế được Lý Công Uẩn. Đó là điều chắc chắn. Nếu Đào Cam Mộc tự xưng vương, rất có thể các quan trong triều sẽ tập hợp lại và đánh đuổi.
Căn cứ vào mẩu đối thoại dưới dây, giữa Lý Công Uẩn và Đào Cam Mộc thì thấy rõ: Lý Công Uẩn, tự bản thân đã có đủ uy tín để được triệu thỉnh lên ngôi hoàng đế.
Đào Cam Mộc đã khuyến thỉnh Lý Công Uẩn:
"Trong lúc chúa thượng u mê, bạc nhược, làm nhiều điều bất nghĩa, trời chán ghét ông ta thất đức đến nỗi phải mệnh yểu! Con nối dõi còn thơ ấu, chưa thể kham nổi tình thế hết sức khó khăn; mọi việc trong triều chính rối như tơ vò, toàn dân nháo nhác ngóng trông một vị chân chúa ra đời. Thân vệ nên thừa dịp này đem kỳ mưu, túc trí ra gánh vác việc nước, xa thì theo dấu cũ của các vua Thang Vũ, gần nên nhìn vào việc làm của hai nhà Đinh, Lê, trên thuận ý trời, dưới hạp lòng người, chứ sao lại khư khư giữ cái tiểu tiết làm gì?"
Sang đến ngày hôm sau thì Đào Cam Mộc lại thỉnh một cách khẩn thiết hơn:
"Lời sấm đã quá rõ ràng, mọi người trong nước đều tin họ Lý sẽ dấy nghiệp. Việc chuyển họa thành phúc (cho đất nước) chỉ một sớm một chiều mà thôi. Đây chính là lúc trời trao vật lớn, vả lại hợp với lòng người mong muốn, Thân vệ còn nghi ngờ gì nữa!"
Lý Công Uẩn về sau cũng siêu lòng và phán:
"Ý ông cũng giống như ý của Sư phụ Vạn Hạnh, nhưng phải hành động thế nào cho được êm ấm vẹn toàn trong ngoài?"
Cam Mộc đáp:
"Thân vệ là người công minh, khoan thứ, hẳn là toàn dân sẽ hết lòng qui phục. Hiện nay trăm họ đói rét khổ sở. Nhân tình trạng đó, thân vệ lấy ân đức phủ dụ thì người người theo về như nước chảy chỗ trũng, ai có thể ngăn lại được?"
Nói xong, Đào Cam Mộc cho triệu tập đám quần thần tản mát lại, ra Tuyên Ngôn tôn vinh Lý Công Uẩnlên ngôi hoàng đế, vị sáng lập một triều đại mới dòng họ Lý ở Việt Nam. Trong tuyên ngôn tấn phong có câu đáng chú ý:
"… Nay ức triệu khác lòng, thần dân lìa đức, nếu không thừa dịp này tôn ngài thân vệ lên ngôi, rủi ro mà có chính biến liệu chúng ta có thể giữ nổi mạng sống hay không?"
Đến đây, thiết tưởng đã có đủ yếu tố để nhận định lòng ngay thẳng của Phật giáo. Phật giáo không bao giờ có ý tôn phò quyền môn, nên thường đứng ngoài các vụ tranh chấp nhỏ nhen bị khu phân trong một lĩnh vực giới hạn, và tránh sự đụng chạm với các thế lực bon chen không mấy trong sạch. Sự thật thì Phật giáo vượt lên trên để làm tròn sứ mệnh của mình là "thiên nhân chi đạo sư", nghĩa là chỉ làm cố vấn mà thôi. Nhà Lý được sáng lập là do chính tư cách cá nhân Lý Công Uẩn đã đưa ông lên ngôi, trong các hàng đình thần bạc nhược. Quốc sư Vạn hạnh chỉ là vị có công giáo dưỡng một công dân vẹn toàn là Lý Công Uẩn.
Đào Cam Mộc, một vị có tuệ nhãn biết lựa chọn nhân tài. Hoàn cảnh đất nước, quần thần và quần chúng buộc Lý Công Uẩn phải lên ngôi. Hai vị Vạn Hạnh và Đào Cam Mộc chỉ là người giúp cho sự lên ngôi của Lý Công Uẩn được êm thắm, tránh va chạm đổ máu vô ích, và được thi hành một cách tinh vi cấp tốc, để tránh sự dòm ngó của ngoại bang và các phe nhóm trong nước.
Có một điều nữa cần phải minh chính. Đó là điều mà nhiều người tin là "triều đại nhà Lý là triều đại của Phật giáo". Điều đó đúng. Nhưng Phật giáo không giữ độc quyền thao túng văn hóa, rồi hắt hủi, không nâng đỡ các đạo giáo khác, như Khổng giáo và Lão giáo, để các đạo này không có cơ phát triển. Mặc dù nhà Lý, do Phật tử Lý Công Uẩn khai sáng, nhưng không vì thế mà nói rằng Phật giáo đã giữ địa vị độc tôn trong mọi sinh hoạt quốc gia. Về mặt tư tưởng, tự do tín ngưỡng tôn giáo, dưới triều Lý, vẫn được triển khai một cách triệt để bình đẳng.
Nên nhớ rằng: không phải chỉ bắt đầu từ đời nhà Lý, Phật giáo mới cố vấn chỉ đạo guồng máy chính quyền. Phật giáo đã làm việc này từ nhà Đinh. Phật giáo không ngửa tay xin việc hoặc quì lụy, luồn cúi quyền môn để xin ân huệ, nhằm thỏa mãn ý định ty tiện riêng tư, để lấn trên ép dưới đối với các đạo khác. Phật giáo bao giờ cũng đứng ngoài chính quyền. Các thiền sư có đời sống riêng, tại các tu viện, để tu đạo, hành đạo. Lịch sử Việt Nam chưa từng ghi một vị thiền sư nào đang tinh tiến tu hành mà cởi bỏ pháp phục để nhận phẩm phục của triều đình, và nhập cung điện an cư bao giờ.
Chỗ chư tăng ở bao giờ cũng là chùa. Áo các thầy mặc bao giờ cũng là màu nâu, lam. Sự việc chỉ có thế. Các thiền sư hàng ngày không bao giờ lai vãng chốn triều đình phiền toái. Chỉ khi nào các vị vua chúa cần điều gì minh giải mà quần thần không làm nổi thì lúc bấy giờ mới phái sứ giả đến thiền môn cung thỉnh các ngài lai triều góp ý kiến giải quyết cho, xong rồi thì việc ai nấy làm.
Vấn đề phong chức cho các vị thiền sư, đối với vua chúa, chỉ là một công việc tế nhị phải làm. Trước hết, là để tỏ lòng biết ơn, thứ nữa là để hệ thống hóa, đoàn ngũ hóa một cách bền chặt một tập thể trong xã hội cũng như bao nhiêu tập thể khác mà thôi.
Điều đặc biệt cần lưu ý là, tuy có một số các vị thiền sư mang chức phẩm của triều đình vinh phong, nhưng triều đình vẫn không bị các vị này chi phối. Các ngài chỉ có thẩm quyền đối với tập thể Phật giáo, còn đối với triều đình thì chỉ giữ vai trò cố vấn. Triều đình có vua quan lo mọi việc. Chưa hề thấy lịch sử ghi cuộc xích mích tranh chấp nào giữa một thiền sư với một vị vua hoặc quan nào cả. Có thể nói được là Phật giáo và triều đình có hai sứ mệnh khác nhau, biệt lập trong nhiệm vụ, nhưng thỉnh thoảng vẫn có một vài vụ tương trợ vô tư, hay có sự liên lạc thân hữu trong sạch với nhau. Đã thấy nhiều vụ vì nghe danh và quá cảm mến, một vị vua cố mời cho kỳ được một vị thiền sư đến cung để luận đàm đạo lý, nhưng vị thiền sư này đã khước từ. Sở dĩ đề cập vấn đề chức tước vua ban cho các thiền sư chính là vì thiên hạ thường coi trọng quan tước rồi muốn dựa vào đó mà toàn quyền hành động. Chứ đối với các thiền sư thì vấn đề chức tước là chuyện bận tâm, vô ích; nhưng vì lịch sự nên vẫn phải nhận để tránh gây ngộ nhận là khi quân. Chưa hề thấy một tập đoàn quần chúng hoặc một cá nhân nào bị điêu đứng khổ sở, vì chuyện nhà vua đã vinh thăng quan tước cho các vị thiền sư, và dù rằng Phật giáo đã công khai hoạt động từ thời nhà Đinh nhưng đến thời nhà Lý mới phát triển được mạnh. Như thế không phải nhà Lý đã nâng đỡ một mình Phật giáo, mà chính Phật giáo cũng phải theo thông lệ như các học phái, tôn giáo khác mà tiệm tiến, chờ đến khi "túc duyên" mới phát triển được mạnh, và đến lúc không còn "liên tục duyên" thì nó cũng theo luật vô thường mà bị suy vi. Hơn nữa, không một vị vua nào lại sơ suất đến độ gây ra hiềm khích giữa các học phái, tôn giáo hay các ý hệ với nhau, để chính triều đại của mình chịu gặp nhiều xáo trộn trong đời sống cộng đồng.
Hồi nước ta mới lấy lại quyền tự chủ, kể từ đời Lý Nam Đế đến Mai Hắc Đế, đến Bố Cái Đại Vương, Khúc Tiên Chúa, Dương Chính Công, Ngô Tiên Chúa thì Nho giáo đã có nhiều người chấp chính, và lúc ấy chưa có sự xuất hiện của các thiền sư một cách chính thức và đại qui mô. Thế mà Nho giáo vẫn không hưng thịnh được, chính là vì những con người theo Nho giáo hồi đó phần nhiều đặt nặng lòng tham vị kỷ lên trên hết, và nhằm ngai vàng làm mục tiêu của mình. Vì thế mấy dòng họ kia đã không được vững bền, lâu dài. Người theo Nho giáo đã không ý thức được sự cường thịnh phải có của quốc gia qua sự ổn cố của xã hội, không tập hợp được quốc dân để hướng họ vào sự phục vụ quốc gia. Nho giáo ở Việt Nam lúc ấy đã là một trở ngại cho bước tiến vững chắc của toàn dân. Về kinh tế, chính trị không được cải thiện một cách hợp lý. Xã hội thì vẫn là một xã hội rập khuôn theo Trung Hoa, không có điều gì mới mẻ quan trọng được khai sinh. Con người lại không có được hoàn cảnh thuận lợi để phát triển khả năng của mình cho xã hội và cho chính hạnh phúc bản thân nữa. Nho giáo buổi ấy, không có chính sách hưng quốc, không có đường hướng hoạt động hợp lý, trên cương vị hành xử việc điều khiển quốc gia. Do đó, sau khi nhà Đinh thống nhất được quốc gia, dẹp tan nạn Thập nhị sứ quân thì đã phải dùng đến các hình luật cực kỳ đanh thép, để lập lại trật tự xã hội, tạo cơ hội thuận duyên cho toàn dân an cư lạc nghiệp.
Lúc ấy họa Thập nhị sứ quân bị tiêu diệt thì chính là lúc cáo chung vai trò của những phần tử theo Nho giáo, và chính lúc ấy Đạo Phật bắt đầu công khai hoạt động.
Đạo Phật, qua hai triều Đinh, Tiền Lê vẫn chưa được mãnh phát đúng khả năng phục vụ quốc gia. Vì hai triều nọ vẫn hãy còn chịu ảnh hưởng của tinh thần Nho giáo nên cả hai triều đại Đinh, Lê đều không tồn tại được lâu bền, vì hệ thống cầm quyền của vua chúa lúc bấy giờ đã mục nát và lỗi thời, nên cần phải có một hệ thống chính quyền mới thích ứng với thời cuộc mới.
Quốc gia Việt Nam phải chờ đến thời nhà Lý mới được hùng mạnh vì nhờ có Lý Công Uẩn, vị khai nguyên triều đại nhà Lý vốn là người đã được giáo dục, đào tạo trong một thời gian ở Thiền môn dưới sự dạy dỗ của quốc sư Vạn Hạnh.
Đạo Phật phát triển được khả năng kiến quốc một cách vinh quang, không phải là nhờ vào phép lạ nào hoặc nhờ vào xảo thuật lấn áp, dìm dập hạng nhân tài chịu ảnh hưởng Nho giáo; trái lại do quá trình tiến hóa tự nhiên chung cho mọi tập đoàn văn hóa mà nó đã rút ra kinh nghiệm kiến quốc ở hai triều đại kia. Nhà Đinh thì đã dùng luật pháp quá khắc khe – trong khi chưa khai phóng, cởi mở cho từng lớp nhân dân – được thi hành triệt để, và các sự cải tổ về chính trị, kinh tế và xã hội chưa mấy hợp lý. Còn nhà Tiền Lê thì cũng không tạo nổi sự thay đổi nào quan trọng có tính cách đại qui mô và có căn bản trường cửu.
Vai trò của các quốc sư, thiền sư làm cố vấn chỉ đạo cho hai triều Đinh, Tiền Lê không được nổi bật như dưới triều Lý. Vì ở vào môi trường giao tiếp giữa Nho giáo và Lão giáo nên các ngài tuy chỉ dẫn vô tư cho các vị quốc vương, song các vị này đã không đủ quyền năng, nghị lực thi hành trọn vẹn sứ mệnh. Đến lớp con cháu các vị thì vẫn còn chịu ảnh hưởng di truyền của đạo Khổng, về cả tinh thần lẫn vật chất, qua các vị vương tử thiếu sáng suốt và nghèo nghị lực, nên chỉ miệt mài lo củng cố hạnh phúc vị kỷ, đến nỗi kéo đổ luôn cả ngai vàng và đưa dòng họ đương vinh quang trở lại đời sống bình thường và phức tạp.
Phải chờ đến đời nhà Lý, nước Việt Nam mới thật sự cường thịnh là do có con Người Mới mang một Ý Thức Mới, tới, và do đó, có một Chính Sách Mới cải tổ toàn diện các cơ cấu quốc gia đi.
Về Chính Trị
Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, mở đầu cho một thời đại văn minh cường thịnh ở Việt Nam. Việc làm trước tiên của vị minh chủ này là: "cho đốt chài lưới, giải phóng các loài chim muông… trên rừng dưới biển, bãi ngục tù, ban chiếu từ nay trong nước ai có điều gì oan ức cho đến triều đình tâu, vua sẽ đích thân giải quyết".
Mùa thu năm ấy, vua cho dời đô từ Hoa Lư đến thành Đại La là Thăng Long thành, tức là Hà Nội bây giờ, Cùng với việc dời đô, nhà Lý đổi châu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức, Thành Hoa Lư thành phủ Trường An, sông Đuống (Bắc Giang) làm sông Thiên Đức.
Đây là nguyên văn bài "Thiên Đô Chiếu.
"Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam đại chi số quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự nhiên tỉ? Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cảu hữu tiện triếp cải; cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vụ tư; trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao vương cố đô Đại La Thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính nam bắc đông tây chi vị; tiện giang sơn hướng bội chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
Trầm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?" (Sử Ký Toàn Thư)
(Xưa, nhà Thương đến vua Bàn Canhđã năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vươngcũng ba lần dời đô. Phải đâu các thời Tam Đạitheo ý riêng mình mà tự tiện dời đổi? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu, trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận lợi thì thay đổi, là cốt mong vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.
Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại vẫn theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của nhà Thương nhà Chu, cứ đóng yên đô thành ở đấy, đến nỗi triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đi. Huống nữa thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, đúng vị trí các hướng nam bắc đông tây, rất tiện cho sự nhìn sông dựa núi; địa thế vừa rộng vừa bằng phẳng, đất đai lại cao và thoáng; dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Ngắm khắp nước Việt ta, chỉ có nơi đây là "thắng địa". Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước, xứng đáng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Trẫm muốn nhân cái thế thuận lợi ấy để định chỗ ở, ý các khanh thế nào?
Sau khi dời đô về thành Thăng Long, cùng lúc với công cuộc kiến thiết các cung điện của triều đình, như: điện Càn Nguyên để coi chầu, điện Lập Hiền, điện Quảng Vũ, điện Long An, điện Long Thụy, điện Nhật Quang, điện Nguyệt Minh, cung Thúy Hoa và Long Thụy cho cung nữ ở. Thành có bốn cửa: Tường Phù (đông), Quảng Phúc (tây), Đại Hưng (nam) Diệu Đức (bắc). Cộng 13 sở, xây thành lũy chung quanh. Vua cũng cho dựng ở phủ Thiên Đức 8 ngôi chùa. Triều đình có dựng bia ghi công. Riêng trong nội thành, vua cho xây chùa Hưng Thiên Ngự; ở cung Thái Thanh, chùa Vạn Thọ, nhà tàng kinh Chấn Phúc; và ở ngoại thành là những chùa: Thắng Nghiêm, Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ, Thiên Quang, Thiên Đức. Triều đình cũng ra lệnh cho các làng trùng tu những chùa hư hại. Phát 310 lạng vàng để đúc chuông chùa Hưng Thiên. Tuyển dân làm tăng, lập giới đàn ở chùa Vạn Thọ cho chư tăng thụ giới.
Năm sau (1011), vua ban lệnh đại xá, cấp quần áo thuốc men cho những người bị Ngọa Triều bắt được trả về quê cũ làm ăn sinh sống. Đồng thời xóa thuế trong ba năm cho cả nước. "Xóa hết nợ thuế cũ của những người mồ côi, góa chồng, già yếu".
Niên hiệu Thuận Thiên thứ 7, 8, 9 trong ba năm liền, vua lại xuống chiếu tha cho dân không phải đóng thuế ruộng (nguồn tài chính trong nước lúc ấy gồm các thuế: gỗ rừng, cá biển, buốn bán, thuế thổ sản; thuế đất, đồ cống hàng năm, trong 6 hạng thuế này chính phủ chỉ thu 4 hạng; trừ thuế thổ trạch, thuế đất).
Năm 1018, vua sai Lý Đạo Thành và Phạm Hợp đi Tống thỉnh Kinh Tam Tạng. Năm 1093, sai các quan nội thị sảnh viết lại Kinh Tam Tạng, rồi trữ tại Tàng Kinh Đại Hưng. Năm 1025, dựng chùa Chân Giáo ở trong nội thành để tiện việc tụng niệm.
Ngô Thời Sỹ, trong Việt Sử Tiêu Án, có lời bình phẩm:
" Vua Lý Thái Tổ sinh trưởng nhờ cửa Phật. Khánh Vân nuôi lớn, Vạn Hạnh dạy dỗ, thuyết nhân quả ăn sâu trong lòng, cho nên khi mới kiến quốc, đã sáng tạo nhiều chùa, cấp điệp độ tăng chúng, muốn đưa cả thế giới vào nước Phật, bất luận hiền ngu muốn cho qui Phật, đến đời sau nhà Lý mới khởi lên ngôi chùa cao sát mây lập nên cột chùa bằng đá cao vót, lấy sự thờ Phật làm việc thường phải có của một nước (lập hơn 300 ngôi chùa, đúc quả chuông nặng đến 1 vạn 2 nghìn cân đồng). Khi khánh thành chùa thì mở hội, xá các tội nhân…" (Sđd, trang 108).
Nhà Lý trải qua các triều vua: Thái Tổ, Thái Tông (1028-1054), Thánh Tông (1072-1127). Các vua trên đây đã cho tổ chức lại cơ cấu hành chính, soạn thảo luật pháp, xây dựng nhu yếu quốc phòng, an sinh và giáo dưỡng, kiến thiết thủ đô Thăng Long, và làm việc để bảo toàn lãnh thổ, thống nhất nhân tâm, nhằm củng cố nền độc lập lâu dài: Năm 1054, nhà Lý đổi tên là nước Đại Việt.
Về Cơ Cấu Tổ Chức Hành Chính
Đầu năm 1011, nhà Lý đổi pháp cũ của nhà Tiền Lê làm 24 lộ. Dưới lộ có phủ, huyện, hương, giáp. Lại đặt thêm đạo như đạo Hải Đông, đạo Tuyên Quang, trại Ái Châu, trại Hoan Châu. Và một số châu, trại được đặt làm phủ, như: phủ Trường An, phủ Thiên Đức, phủ Thanh Hóa. Về hành pháp, đứng đầu triều đình là vua, rồi đến các quan cao cấp; về văn và võ chia làm chín phẩm cấp, và một số cơ quan chuyên trách. Bộ máy hành chính được thiết lập từ trung ương đến các đơn vị cơ sở. Khu vực hành chính gồm có bộ và phủ rồi đến huyện và cuối cùng là hương, giáp… (LSVN. TI).
"Để giúp vua nắm mọi mặt chính trị, quân sự, nhà Lý đặt thêm Trung thư sảnh (với các chức trung thư thị lang) và Khu mật sứ (với các chức tả hữu khu mật sứ). Cùng bàn việc với tể tướng có tả hữu tham tri chính sự.
Trông coi về việc đàn hặc, giám sát quan lại, có ngự sử đài với các chức tả hữu giám ngự đại phu. Giúp việc tể tướng, còn có các chức hành khiển đồng trung thư môn hạ hình chương sự. Dưới đó có thượng thư sảnh với các chức thượng thư sảnh viên ngoại lang. Chức đình úy trông coi việc hình án, chức đô hộ phủ sĩ sư chuyên xét các án còn nghi ngờ.
Trông coi các việc trong triều đình có nội thị sảnh. Giúp việc soạn các lời chiếu, chế của vua, có Hàn Lâm Học Sĩ".
Về Ngoại Giao
Ở phía nam, nước Đại Việt giáp với Chiêm Thành, một tiểu vương quốc vốn có tiếng hung bạo, thường hay xua quân sang đánh phá miền duyên hải nước ta. Bằng chứng: Khi nhà Tiền Lê mới chấp chính, vua Đại Hành sai sứ sang Chiêm Thành, bị vua nước này bắt giam sứ lại. Vua Đại Hành giận lắm. Chờ tới sau khi phá được Tống rồi, vua đem quân qua đánh báo thù. Quân nhà Tiền Lê tràn vào đô thành nước Chiêm đốt phá, bắt người, và lấy rất nhiều của cải châu báu, rồi rút quân về nước một cách an toàn.
Buổi đầu thời nhà Lý, khi Lý Thái Tổ lên ngôi, Chiêm Thành vẫn cho sứ thần sang cống. Kể từ năm 1028, thái tử Phật Mã, tức lý Thái Tông lên làm vua, đã mười lăm năm Chiêm Thành không chịu thông sứ. Do đó năm 1044, vua Thái Tông đích thân ngự giá đi đánh Chiêm Thành. Quân ta kéo vào kinh đô Vijaya, bắt sống vua nước ấy là Rudravarman III. Từ đấy phía nam được tạm yên. Vua nước Chiêm Thành hằng năm lại vẫn phải triều cống như cũ.
Về phía Bắc, nước ta ở sát nách một nước khổng lồ (Trung Hoa). Mà các ông vua Trung Hoa vốn luôn luôn tự xem mình là một nước "Thiên triều", coi các lân quốc ở chung quanh là man di, chỉ chờ cơ hội thuận tiện là đem quân tới xâm lăng, hòng áp đặt lại ách thống trị thời Hán Đường của cha ông chúng. Ngay sau khi mới lên ngôi, Lý Thái Tổ đã có chủ trương giao hảo với nhà Tống. Năm 1010, viên ngoại lang Lương Nhậm Văn và Lê Tài Nguyên được cử đi sứ Tống, do đó quan hệ giữa hai nước tương đối hòa hảo.
Cho tới khi Tống Thần Tông (1068-1078) lên cầm quyền. Vương An Thạch được cử làm tể tướng. Bấy giờ ở Ung Châu có quan tri châu là Tiêu Chú làm sứ dâng về Tống triều, nói rằng: "Nếu không đánh lấy đất Giao Châu thì về sau thành ra một mối lo cho nước Tàu". (Trong lúc) Vương An Thạch có ý muốn lập công ở ngoài biên và nhân dịp, để khỏa lấp sự thất bại về "Tân pháp"do y chủ xướng để cải tổ việc chính trị trong nước, bị người dân Trung Hoa không chịu thi hành, cho là trái với chế độ phong tục cổ truyền.
Cuộc chiến tranh xâm lăng nước Đại Việt của nhà Tống vẫn được khởi sự. Quan hệ bang giao Lý - Tống trở nên căng thẳng trong một thời gian.
Nhưng sau kháng chiến chống Tống đã toàn thắng (xem mục quân sự: Kháng Tống), nhà Lý vẫn giữ tư thế một nước độc lập, tiếp tục giao hảo với nhà Tống.
Trong hơn hai thế kỷ, nhà Lý vẫn theo đuổi một chính sách ngoại giao lúc cương nghị, lúc uyển chuyển, thật linh động: nhằm mở rộng quan hệ ngành thương nghiệp với các nước láng giềng, đồng thời bảo toàn được lãnh thổ và nền tự chủ của dân tộc.
Về Quân sự
Quân đội của nhà Lý gồm có quân cấm vệ và quân các lộ. Đội quân chuyên bảo vệ cung điện của nhà vua, đóng chung quanh kinh thành, gọi là cấm vệ (mỗi quân 200 người, cộng 2000 người), đặt tên là Quảng Thành, Quang Vũ, Ngự Long, Phủng Nhật, Trừng Hải. Năm 1059, đời Lý Thánh Tông, lại thêm sáu quân nữa. Cấm quân bấy giờ gồm có 16 quân. Cộng 3.200 người. Tên quân cũng đặt lại như sau: Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thông Điện, Phủng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược, Vạn Tiệp (LTK). Tất cả cấm quân đều thích trên trán 3 chữ "Thiên tử quân". Đứng đầu các tướng phụ trách cấm quân là chức thiếu uý. Toán quân trực ở trước điện vua do điện tiền đô chỉ huy sứ chỉ huy. Các vệ thì có các cấp tướng như: Tả hữu kim ngô vệ tướng quân, kim ngô độ lãnh binh sứ, tả hữu vệ tướng quân, hàm vệ, đinh thắng thượng tướng quân, đại tướng quân, tướng quân.
Ngoài cấm quân, có quân các lộ, các phủ. Tất cả nhân dân đến tuổi hoàng nam (18 tuổi) đều phải đăng lính, nhưng vẫn được ở nhà cày bừa, mỗi tháng mới phải đi phiên một kỳ ngắn. Đó là chính sách "ngụ binh ư nông" (Có nghĩa là giữ quân lính ở nhà nông) vừa đảm bảo số quân cần thiết phòng khi không may có chiến tranh xảy tới. Các chức chỉ huy quân đội có: Đô thống, nguyên soái, thống quản, thượng tướng, đại tướng, đô tướng.
Những lần chinh phạt lớn, vua tự làm tướng hay cử các hoàng tử thân vương làm nguyên soái chỉ huy.(LSVN, TKX – 1427, q 1. T2)
"Quân đội nhà Lý đã đạt đến một trình độ tổ chức và huấn luyện khá cao. Quân đội phiên chế thành các đơn vị: Quân, vệ và bao gồm các binh chủng: bộ binh, thủy binh, kỵ binh, tượng binh. Trang bị quân đội, ngoài các loại vũ khí đã thấy từ trước như giáo mác, cung nỏ, khiên v.v.. còn có thêm máy bắn đá. Lực lượng quân đội hùng hậu đó giữ vai trò rất quan trọng trong việc củng cố nhà nước về mặt đối ngoại, đã lập nên nhiều chiến công rực rỡ trong các cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước".
Năm 1011, sau khi Lý Thái Tổ lên ngôi vua thì Chiêm Thành chịu cống. Nhưng chỉ được ít năm, rồi thôi; mùa hè năm 1043, lại còn cho quân tới quấy phá ở ven bể. Vì thế vua Lý Thái Tông mới mở cuộc thân chinh. Chuyến ấy, quân ta vào sâu trong nước, giết chúa là Sạ Đẩu, bắt 36 con voi, 5.000 ngườivà chém giết nhiều người bản xứ. Thái Tôngtrông thấy động lòng thương, hạ lệnh cấm không được giết người Chiêm Thành, ai trái phép sẽ chiếu theo quân luật trị tội. Rồi vua kéo quân vào kinh đô Vijaya, bắt cung nhân, nhạc nữ rất nhiều.
Sau khi chiến thắng Chiêm Thành trở về, vua ban thưởng các quan, đổi niên hiệu: Thiên Cảm Thánh Vũ, và ban bố tờ chiếu xá nửa tiền thuế cho toàn dân:
"Việc đánh dẹp phương xa, làm tổn hại công việc nhà nông. Thế mà có ngờ đâu, mùa đông năm nay lại được mùa lớn! Nếu trăm họ cùng no đủ thì trẫm còn lo gì thêm nữa? Vậy, xá cho thiên hạ một nửa tiền thuế năm nay để an ủi nỗi khó nhọc lội suối trèo đèo” – ĐVSKTT, Nguyễn Đức Vân dịch –
Từ đấy Chiêm Thành chịu thần phục nhà Lý.
Năm 1038, châu Quảng Nguyên (nay thuộc tỉnh Cao Bằng) có tên tù trưởng Nùng Tồn Phúc làm loạn, tự xưng là Chiêu Thánh Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Trường Sinh, đắp thành, luyện quân, không nộp cống cho nhà Lý nữa. Vì vấn đề thống nhất quốc gia, và để ngừa trước không cho xảy ra tình trạng hùng cứ địa phương, nên năm 1039, Thái Tông thân chinh đi đánh dẹp, bắt được Nùng Tồn Phúc đem về kinh xử tội. Vua xuống chiếu phủ dụ toàn dân:
"Trẫm từ khi làm chủ thiên hạ tới nay, các bề tôi văn võ, không người nào dám bỏ tiết lớn; phương xa cõi lạ, không nơi nào không thần phục. Mà họ Nùng đời này qua đời khác cũng giữ yên bờ cõi được phong, hằng năm đều nộp cống phẩm.
Nay Tồn Phúc càn rỡ, tự tôn tự đại, tiếm xưng vị hiệu, ban hành chính lệnh, tụ tập quân ong kiến, làm hại dân biên thùy. Vì thế, trẫm cung kính thi hành mệnh trời trách phạt, bắt được bọn Tồn Phúc, gồm 5 người, đều đem chém đầu ở chợ" – ĐVSKTT, Nguyễn Đức Vân dịch
Trong khi Nùng Tồn Phúc bị quân nhà Lý bắt sống thì A Nùng (vợ Nùng Tồn Phúc) và con là Nùng Trí Cao chạy thoát. Năm 1041, Nùng Trí Cao cùng với mẹ là A Nùng từ động Lôi Hỏa về châu Thảng Do (gần Quảng Nguyên) lập ra một nước Đại Lịch. Thái Tông cắt quân đi đánh, bắt được Trí Cao đưa về kinh. Nhưng vua nghĩ trước đã giết cha chúng, nay thương tình không giết, tha cho về và lại phong cho làm Quảng Nguyên Mục. Tình hình được tạm yên.
Sau khi Lý Thái Tông đã chiến thắng Nùng, lúc trở về, dân động Vũ Kiến, châu Quảng Nguyên, dâng một khối vàng sống 112 lạng. Triều đình họp xin đổi niên hiệu là Càn Phù Hữu Đạo và tặng thêm tên hiệu tám chữ "Kim Dũng Ngân Sinh, Nùng Bình Phiên Phục" (vàng nổi lên, bạc sinh ra, bình trị được họ Nùng, qui phục được nước Phiên). Vua đã đáp lời quần thần xin dâng tên hiệu:
"… Trẫm đem tấm thân cô đơn, sống gửi trên (tất cả) sĩ dân, dậy sớm thức khuya, lúc nào cũng (lo sợ) như lội vực sâu, chưa biết lấy đạo gì để thấu trời đất, lấy đức gì để kịp Nghiêu Thuấn.
"Vừa rồi giặc Nùng dẹp yên, nước Chiêm qui phục, hang nảy vàng ròng, đất sinh bạc trắng, ý chừng có điều gì mà được như thế chăng? Hay là có điều gì (trời đất) cảnh tỉnh chăng?
"Trẫm rất lấy làm lo sợ, sao xứng đáng tôn danh hiệu tốt đẹp. Lời bàn của các khanh nên dẹp bỏ đi"bản dịch của Phạm Tú Châu, Thơ Văn Lý Trần, tập I.
Năm 1044, Nùng Trí Cao về chầu vua Lý ở Thăng Long. Nhưng sau bốn năm, năm 1048, Nùng Trí Cao lại phản, chiếm động Vật Ác (tây bắc Cao Bằng). Vua sai quan thái uý Quách Thịnh Dật đem quân đi đánh nhưng không thắng được. Năm 1052, Nùng Trí Cao đem 5.000 quân đánh lấy Ung Châu, rồi chiếm hết vùng đất ở Quảng Đông, Quảng Tây, tự xưng là Nhân Huệ Hoàng Đế, đặt quốc hiệu Đại Nam. Nhà Tống lo sợ. Vua Lý biết quân lực nhà Tống yếu, vờ xin đem quân sang giúp. Vua Tống đồng ý. Nhưng Địch Thanh là tướng có kinh nghiệm can di. Do đó vua Tống không nhờ quân nhà Lý nữa.
Năm 1053, Địch Thanh được vua Tống cho phép cầm quân đi đánh Trí Cao. Trí Cao chống cự không nổi, phải rút quân. "Trí Cao cử Lương Châu đến triều đình Lý xin cứu viện, nhà Lý muốn nhân đó, kiềm chế cuộc tiến quân của nhà Tống, bèn cử chỉ huy sứ Vũ Nhị đem quân lên giúp. Nhưng quân Trí Cao vẫn không tiến thêm được bước nào. Thất bại liên tiếp, Trí Cao phải chạy sang nước Đại Lý rồi chết ở đấy" (LSVN, thế kỷ X – 1427, q 1 t2).
Để chuẩn bị chống Tống, điều cần trước nhất là, đánh Chiêm Thành, nhằm cảnh cáo nước này (đã) dựa vào thế lực nhà Tống, cắt đứt quan hệ với Đại Việt, và còn đem quân quấy phá vùng biên cảnh nước ta.
Năm 1069, Lý Thánh Tông xuống chiếu thân chinh Chiêm Thành (VSL). Quân sĩ gồm 5 vạn (TT). Lý Thường Kiệt được chọn làm Đại tướng quân và đi tiên phong (VĐUL). Cách ba ngày sau, vua xuống thuyền xuất quân, giao quyền bính cho Nguyên Phi Ỷ LANvà Thái úy Lý Đạo Thành.Quân ta đã vào lấy được Vijaya nhưng vua Chiêm trốn thoát. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đuổi bắt vua Chiêm. Vua đợi mãi chưa bắt được. Sợ vắng mặt lâu, trong nước dân sự không yên, nên đưa một phần quân về nước. Nhưng về dọc đường, được tin bà Nguyên Phi (Ỷ LAN) coi nội trị giỏi, khiến nhân hòa hợp, cõi nước yên lặng. Vua tự nghĩ rằng: "kẻ kia là đàn bà, còn giỏi như thế, ta là đàn ông, há lại vụng về sao?" Rồi vua quay trở lại đánh, bèn thắng.
Sau khi bắt được Rudravarman III, vua Lý đãi yến quần thần tại điện vua Chiêm.
Cuộc rước vua viễn chinh khải hoàn diễn ra tại kinh đô Thăng Long rất long trọng. Vua Chiêm Thành mình mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây gai, tay trói sau lưng, có 5 tên lính hiệu Vũ đô dắt đi. Các thuộc đảng cũng bị trói dắt theo sau.
Thế là vua Lý Thánh Tông đã thỏa lòng tự lập: sau khi xưng đế, lập được vũ công, vua bèn đổi niên hiệu Thiên Huống Bảo Chương ra Thần Vũ để ghi vũ công lớn lao ấy.
"Rudravarman III xin dâng đất chuộc tội. Vua Lý bằng lòng. Ba châu Bố Chính, Đại Lý, Ma Linh thuộc Chiêm Thành từ đó sáp nhập về nước ta. Nay là địa phận Quảng Bình, phía tây Quảng Trị.
Rudravarman III được tha về nước
"Rồi năm 1103 ở Diễn Châu (thuộc Nghệ An) có Lý Giác làm phản. Lý Thường Kiệt đích thân đi dẹp giặc. Lý Giác thua, chạy sang Chiêm Thành, đem quốc vương là Chế Ma Na qua đánh lấy lại 3 châu: Địa lý, Ma Linh, Bố Chính. Nhưng năm sau (1104) vua Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt vào đánh Chiêm Thành, Chế Ma Na thua xin hàng, trả lại 3 châu như cũ.
"Từ khi bình phục được nước Chiêm thành rồi, thanh thế nước ta bấy giờ rất lớn. Tống phải kiêng nể. Vua Tống luôn luôn dặn biên thần đừng gây sự với ta. Còn Chiêm Thành, thì kinh sợ và thần phục".
Sử chép: Dưới thời LÝ THÁNH TÔNG, năm kỷ dậu (1069) nhân khi vua đi đánh Chiêm Thành, có bắt được vua nước ấy là Rudravarman III (Chế Củ) và nhiều lính làm tù binh, trong số các tù binh có Hòa thượng Thảo Đường.
Với chính sách khoan dung của triều đình ta hồi ấy là, trong số những tù nhân, được vua trọng dụng, cho làm chức quản hầu; nhân một hôm vị Tăng lục đi vắng lúc trở về, nhìn vào bản "Ngữ Lục" của mình thấy nhiều đoạn văn bị sửa chữa. Vị tăng lục đem tự sự trình lên vua. Vua cho điều tra. Có một tù nhân nhận là mình đã sửa. Vua cho đòi tên tù nhân ấy tới thẩm vấn, thì y ứng đối thông thái, luận về những yếu lý Đạo Phật rất tinh tường quán triệt. Hỏi ra thì biết đó là vị thiền sư người Trung Hoa sang truyền đạo ở Chiêm Thành, chẳng may bị bắt làm tù binh. Vị thiền sư ấy chính là hòa thượng Thảo Đường. Khi biết rõ tông tích vua liền phong ngài làm quốc sư và cho mở đạo tràng giảng kinh trong thành Thăng Long. Số đệ tử theo học đạo mỗi ngày một đông, cả vua cũng xin làm đệ tử. Từ đấy Đạo Phật Việt có thêm một phái Thiền tông thứ ba, phái Thảo Đường.
Dòng Thiền Thảo Đường (1069-1205) truyền được 5 đời, gồm 19 vị tổ kế thừa.
Cuộc Đánh Cảnh Cáo Nhà Tống Dưới Triều Vua Lý Nhân Tông 1075.
Năm 1068, khi Tống Thần Tông lên cầm quyền, triều đình nhà Tống gặp phải cảnh huống khủng hoảng về quân sự, chính trị, kinh tế và xã hội. Qua năm sau, năm 1069, Vương An Thạch, một nho thần, được cử làm tể tướng, y đề ra chính sách cải cách kinh tế, "làm dân bớt bị quấy, thêm giàu; làm quốc khố dồi dào, làm binh lực nước mạnh."nhằm cứu vãn tình thế khó khăn trong nước và sự uy hiếp của hai nước Liêu – Hạ ở phía Bắc và tây bắc Trung Hoa,đồng thời có ý đồ mở rộng biên cương xuống phía Nam mà Quảng Nam là vùng ở cực nam nước Tống gồm hai lộ: quảng Nam tây lộ và Quảng Nam đông lộ. Gọi tắt là Quảng tây và Quảng Đông. Nước Đại Việt đời Lý tiếp giáp đất Quảng Tây. Theo kế hoạch trên "nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, và các nước Liêu – Hạ sẽ phải kiêng nể". Vẫn theo sự tính toán của Vương An Thạch thì:
"Lúc quân ta (tức quân Tống) diệt được Giao Chỉ (tức nước ta), uy ta sẽ có. Rồi ta báo cáo cho Thiểm Tây biết, quân dân Thiểm Tây sẽ có thắng khí. Với thắng khí ấy, ta sẽ nuốt tươi nước Hạ. Mà nếu nuốt được nước Hạ thì ai dám quấy nhiễu Trung Hoa nữa".
Vương An Thạch làm nội chính cách mạng, nhưng khi đem ra thực hiện "Tân pháp" gặp phải rất nhiều sự chống đối trong nước, nhất là các lão thần. Khoảng tháng 6 năm 1074, Vương An Thạch tự thấy không làm được gì, xin từ chức. Nhưng tình hình mỗi ngày càng phức tạp hơn. Đến tháng 3 năm 1075, chỉ sau mười tháng vắng mặt ở Biện Kinh, Vương An Thạch lại được vua Tống triệu về chấp chính.
… Nước Đại Việt, từ lâu, đã là mục tiêu của vua tôi nhà Tống muốn đánh lấy. Theo Vương An Thạch vẫn là "đánh lấy nước yếu để dọa nước mạnh". Triều đình nhà Tống ra lệnh cho các tướng tá phòng thủ phía Nam"chuẩn bị lương thực, bắt lính, đóng chiến thuyền và tổ chức tập trận". Nhà Tống còn ra sức mua chuộc các thủ lĩnh bộ tộc thiểu số vùng biên giới, hòng làm suy giảm tiềm lực kháng chiến của dân tộc ta.
Trong lúc Tống sửa soạn đánh Lý, thì có sứ Liêu đến Biện Kinh, hỏi viên tiếp sứ rằng:
- “Nam Man có việc gì?”
- Nam Man tức là Giao Châu. Viên tiếp sứ trả lời:
- Nam Man cướp. Triều đình đã sai người dẹp.
- Binh dùng có đến vài vạn không?
- Không đến vài nghìn.
- Ai làm tướng?
- Quách Quỳ và Triệu Tiết" (LTK trang 237)
Ở nước ta, khi Lý Thường Kiệt lên cầm quyền, trước hết, ông lo việc củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và xây dựng lực lượng quốc phòng, để kịp thời đối phó với quân xâm lăng nhà Tống. Trong khi đó, có người Tống ở Quảng Tây tên là Từ Bá Tường, gửi mật thư cho vua Lý (1075) nói rằng: "Tống sửa soạn đánh Giao chỉ. Theo binh pháp: Trước khi người có bụng cướp mình chi bằng mình đánh trước. Lúc nào quân đại vương vào đánh, Bá Tường này xin làm nội ứng".
Khi đã nắm vững được tình thế chủ động rồi, một mặt Lý Thường Kiệttâu vua Lý Nhân Tông xin gửi công hàm tới triều đình Tống đòi lại tụi Nùng Thiện Mỹ và 700 bộ thuộc đã trốn sang Trung Hoa; một mặt, ông lập tức tâu vua: "Ngồi im đợi giặc, không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc".
Triều đình Lý tán thành.
Thế là cuộc chuẩn bị đánh Tống được nhanh chóng thực hiện. Với một đội quân từ sáu tới mười vạn người, chia làm hai đạo thủy và bộ, do Lý Thường Kiệt tổng chỉ huy, nhằm tiêu diệt các cứ điểm quân sự của Tống ở các trại biên giới, cửa biển Khâm Châu, Liêm Châu, và chủ yếu là đánh Ung châu.
Ngày 27/ 10/ 1075, quân ta mở đầu cuộc tiến công vào đất Tống. Trước khi ra quân, Lý Thường Kiệt tuyên bố:
“Trời sinh ra dân chúng, vua hiền ắt hòa mục. Đạo làm chủ dân, cốt ở nuôi dân. Nay nghe vua Tống ngu hèn, chẳng tuân theo khuôn phép thánh nhân, lại tin kế tham tà của Vương An Thạch, bày những phép “thanh miêu”, “trợ dịch”, khiến trăm họ mệt nhọc lầm than mà riêng thỏa cái mưu nuôi mình béo mập.
Bởi tính mệnh muôn dân đều phú bẩm tự trời, thế mà bỗng sa vào cảnh éo le độc hại. Lượng kẻ ở trên cố nhiên phải xót, những việc từ trước, thôi nói làm gì nữa!
Nay bản chức vâng mệnh quốc vương chỉ đường tiến quân lên Bắc, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch nhơ bẩn hôi tanh để đến thuở ca ngày Nghiêu, hưởng tháng Thuấn thăng bình!
Ta nay ra quân, cốt để cứu vớt muôn dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền tới để mọi người cùng nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi".
Bản dịch của Trần Văn Giáp, trích Thơ Văn Lý Trần tập 1.
Lý Thường Kiệt ra lệnh tập trung thủy quân ở Vĩnh An và bộ quân ở dọc biên thùy các châu: Quảng Nguyên, Môn, Quang Lang và Tô Mậu. Khí giới thì ngoài cung nỏ, trường thương mà hai bên đều dùng, ta có tên tẩm thuốc độc, và máy bắn đá. Ta còn dùng nhiều chiến thuyền và voi để xung phong. Voi có thể do cả đường thủy và đường bộ tiến vào.
Đạo quân thuộc các bộ tộc thiểu số, do Tôn Đản chỉ huy, được lệnh xuất quân trước, chia thành nhiều ngả vượt biên giới tiến chiếm các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn… châu Tây Bình, Lộc Châu. Một cánh quân khác đóng gần biên giới Khâm châu cũng kéo tới đánh các trại Như Hồng, Như Tích và Đề Trạo. "Quân ta tới đâu như vào nhà trống không người" (VSL).
Trong khi ấy, Lý Thường Kiệt dẫn đại quân đi đường thuỷ, từ châu Vĩnh An (móng cái) tới Khâm châu và Liêm châu. Ngày 30 – 12 – 1075, quân ta tiến chiếm thành Khâm Châu, bắt toàn bộ quan quân, không phải giao phong một trận nào. Ba ngàysau, 2 – 1 – 1076, Liêm Châu cũng mất vào tay quân ta. Tám nghìn thổ binh bị ta bắt làm phu khiêng vác…
Chiếm xong hai Châu Khâm, Liêm, Lý Thường Kiệt dùng chính sách "phủ dụ" để nêu danh nghĩa làm yên lòng dân Tống, ông sai yết bảng dọc đường kể tội quân Tống. Lời Lộ Bố nói rằng: "Quan coi châu Quế đã kiểm điểm dân các động và dã tuyên bố rõ rằng muốn sang đánh Giao chỉ". Ông cũng lợi dụng sự tranh chấp giữa hai phái tân và Cựu trong triều đình Tống, để chia rẽ hàng ngũ địch. Trong các lộ bố có nói: Trung Hoa dùng các phép thanh miêu, trợ dịch, làm dân khốn khổ. Nay ta đem quân tới cứu".
Khi được tin hai châu Khâm, Liêm đã mất, vua tôi nhà Tống rất lo ngại, hoang mang. Triều đình náo động. Các tướng ở địa phương bối rối. Ti kinh lược Quảng Nam tây lộ vội vã xin viện binh: 20.000 quân, 3.000 con ngựa, xin thêm khí giới, đồ dùng và một tháng lương, và xin được điều động các dân khê động, tất cả lấy dọc đường từ Kinh đến Quảng Tây. Để điều khiển quân được mau chóng, Ti ấy cũng xin dời đến thành Tượng, gần phía Bắc Ung Châu (LTK).
Trong lúc bối rối, triều đình Tống đối phó rất lúng túng. Vua Tống cách chức Lưu Di và sai Thạch Giám thay coi Quế Châu và làm kinh lược sứ Quảng Tây, đồng thời xuống chiếu cho các quan lại địa phương, dặn rằng: "Nếu xem chừng quân Giao Chỉ tới đâu mà không đủ quân giữ, thì chỉ giữ lấy chỗ hiểm mà thôi. Chỗ nào có tiền, vải, lương thực, thì phải chở tháo đi, đừng để lọt vào tay địch".Sau đó lại ra một lệnh trái ngược, nói rằng: "Nếu quân bỏ thành đi chỗ khác, thì lo rằng dân rối sợ. Hãy bảo các quan Ti đều phải trở lại thành mình".
Trên các mặt trận, quân Lý hoàn toàn làm chủ. Lý Thường Kiệt cho đạo quân ở Khâm và Liêm Châu tiến lên phía Bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm Châu kéo thẳng lên Ung Châu. Đường thẳng dài chừng 120 cây số, nhưng phải qua dãy núi Thập Vạn. Còn đạo đổ bộ ở Liêm Châu tiến sang phía đông bắc, chiếm lấy Bạch Châu, hình như để chặn quân tiếp viện của Tống từ phía đông tới. Rồi hẹn ngày 18 – 1 – 1076, hai đạo quân sẽ cùng hội lại tạo thành một sức tiến công bão táp và bất ngờ vây chặt lấy Ung Châu.
Ung Châu là một thành lũy kiên cố, do tướng Tô Giám cùng với 2.800 quân cương quyết cố thủ; để chờ quân các châu và quân triều đình tới tiếp cứu: "Cuộc chiến đấu ở thành Ung Châu, bởi thế, sẽ rất gay go, quyết liệt, và sẽ là một trường tranh đấu giữa mưu trí của Lý Thường Kiệt và lòng dũng cảm của Tô Giám" (LTK).
Ngày 11 – 2 – 1075, Trương Thủ Tiết, từ Quảng Châu, đem quân tới cứu viện; bị quân ta chặn đánh ở ải Côn Lôn (phía bắc Ung Châu) cách Ung Châu 40 cây số. Quân Tống bạc nhược chưa đánh đã chạy, nhiều tên quân hàng theo ta. Trương Thủ Tiết và nhiều tướng tá bị giết.
Thành Ung Châu vẫn tiếp tục bị vây hãm. Quân ta dùng một thứ công cụ (thường gọi là máy bắn đá) nhằm bắn vào trong thành, khiến người và ngựa chết như rác. Quân của Giám có cung thần tí bắn một phát được nhiều tên, giết nhiều lính và voi của ta. Lý Thường Kiệt ra lệnh cho quân sĩ chiếm thành. Nhưng thành cao và chắc, quân ta phải dùng vân thê, là một thứ thang bắc truyền nối nhau rất cao, để leo lên thành, nhưng vẫn không tiến thêm được bước nào. Ta phải dùng đến kế đào đường hầm, định chiu vào thành, cũng không vào nổi. Sau dùng hỏa công, nghĩa là bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành. Trong thành thiếu nước, không thể chữa được cháy.
Sau 42 ngày công phá mà không sao phá được, cuối cùng ta dùng phép thổ công; lấy đất bỏ vào bị, xếp chồng lên nhau, thành bực thềm để lên thành. Bao đất chất hàng vạn, dần dần cao như núi. Chốc lát đã cao đến vài trượng. Quân Lý nối tiếp nhau như kiến mà trèo lên, rồi lọt vào trong thành. Hôm ấy là ngày 1 – 3 - 1076.
Lý Thường Kiệt sai phá thành Ung Châu, lấy đá lấp sông để ngăn ngừa quân cứu viện của địch. Rồi tiếp tục tiến lên phía bắc, định lấy Tân Châu. Viên quan coi Tân Châu, nghe thấy quân ta kéo gần đến thành, bỏ thành chạy trốn (LTK).
Sau khi Ung Châu thất thủ. Mộng Vương An Thạch định đánh lấy nuớc ta đã tan tành như mấy khói. Dư luận xôn xao ở khắp nơi rất bất lợi cho y. Các triều thần nhao nhao phản đối vì "ai cũng biết y là chủ mưu và hoàn toàn phải mang trách nhiệm".Tuy nhiên, Vương An Thạch vẫn tìm mọi cách để tự bào chữa: "Đáng lẽ, ta phải đánh khi Càn Đức (tức Lý Nhân Tông) mới lập. Bấy giờ, các khê động đều muốn nội phụ. Nếu lúc ấy ta muốn đánh Giao Chỉ, thì chỉ cần hai vạn tinh binh, chọn năm, sáu tướng vừa vừa, là có thể làm xong chuyện!" Y còn nói thêm: Tôi, khi trước thấy Giao Chỉ đánh Ung Châu chưa hạ được, trong nước chúng bỏ hoang; nên tính có thể hành động chóng mà đánh úp ở hậu phương nó.Làm như thế, thì ta không cần đánh quân nó đương cướp ở nước ta, mà chúng cũng bị tan. Sau khi Ung Châu mất, sự đánh úp chúng không thể bàn đến nữa" (LTK).
Cuộc hành quân thần tốc của Lý Thường Kiệt nhằm đánh phủ đầu vào đất Tống – trước khi chúng định đánh lấy nước ta – đã làm đảo lộn hết mọi kế hoạch của địch, khiến chúng phải chùn bước; đang từ thế chủ động rơi vào thế thụ động; vì thế cuộc đánh phục thù và có ý đồ xâm lăng nước Đại Việt của Tống đành phải lùi lại một thời gian nữa mới có thể thực hiện. Vương An Thạch không kịp chờ kết quả của cuộc phát binh trả thù mà mình đã chủ mưu. Tháng 10 năm 1076, tể tướng Vương An Thạch phải từ chức.
Khi mục tiêu của cuộc "hành quân" đã đạt được, Lý Thường Kiệt ra lệnh cho toàn bộ quân sĩ nhanh chóng rút về nước, chuẩn bị cuộc kháng chiến mới, chống Tống sắp sửa kéo xuống xâm lăng nước ta.
Cuộc Khởi Binh Của Tống Đánh Nước Đại Việt
Cuộc khởi binh của Tống lần này có mục đích rõ rệt: vừa đánh báo thù, sau khi quân ta tiến chiếm các châu: Khâm, Liêm, Ung vừa có chủ ý "chinh phục nước ta và sáp nhập đất đai ta vào Tống".
Chỉ sau 8 ngày, Ung Châu bị quân Lý chiếm, ngày 9 – 3 – 1076, vua Tống cử Quách Quỳ làm An Nam đạo hành doanh mã bộ quân tổng quản chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, cầm quân sang đánh Đại Việt.
Muốn chắc đạt mục đích, một mặt, Tống sửa soạn một cách chu đáo về đủ mọi phương diện: tướng tá, quân bộ, quân thủy, khí giới, thuốc men, xe ngựa, tàu thuyền, tuyên truyền, phủ dụ…; mặt khác, vua Tống sai sứ qua Chiêm Thành, Chân Lạp xúi giục các nước này đánh biên thùy phía Nam nước ta.
Trong chiếu dụ vua Tống có đoạn:
"Chiêm Thành, Chân Lạp từ lâu nay bị Giao Chỉ cướp. Nay vương sứ sang đánh Giao Chỉ để phạt tội. Các nuớc ấy nên thừa cơ hội, hiệp lực mà trừ nó. Ngày nào đánh dẹp xong, trẫm sẽ ban thưởng cho"
Ngày 27 – 3 – 1076, Quách Quỳ từ giã Phu Diên về đén Biện Kinh. Quỳ vào yết kiến vua Tống, vua hỏi: "Dẹp An Nam bằng chước nào?"
Quỳ cẩn thận trả lời: "Về việc binh, khó lòng ở xa mà tính trước. Xin đợi đi đến Ung Châu, rồi sẽ hiến phương lược". Vua lại hỏi: "Dùng quân phải thế nào?" Quỳ đáp: "Xin đưa theo tất cả tướng, lại, quân, sĩ cũ ở các châu Phu Diên tại Hà Đông (Thiểm Tây)" (LTK).
Lời tâu của Quách Quỳ được vua chuẩn y vì trước kia, triều đình Tống cũng đã có lệnh chọn những tướng tài có kinh nghiệm chiến đấu ở chiến trường phía bắc sung vào việc cầm các đạo quân Nam chinh.
Tống Thần Tông xuống chiếu dặn rằng: "Sau khi bình được Giao Châu, sẽ đặt châu huyện như nội địa".
Với một đạo quân hùng hậu hơn mười vạn người, do chính tướng từng có kinh nghiệm chiến đấu chống quân Liêu – Hạ từ phía bắc xuống, đặt dưới sự chỉ huy của Quách Quỳ. Mỗi tướng điều động chừng 5.000 quân. Vậy có 45 ngàn quân chính qui, trong số đó có 2.500 kỵ binh châu Kinh, Nguyên, Tần, Lũng. Bộ binh phần lớn lấy ở doanh trại đóng gần biên thùy Liêu _ Hạ, là những toán quân chiến đấu giỏi. Ngoài 5.000 quân chính qui ra, dọc đường sẽ mộ thêm binh các lộ Hà Bắc, Kinh Động và ở miền nam, Động Đình và quân tình nguyện.(1)
Vua Tống còn dặn thêm: "Hãy coi chừng tụi thuyền chài bờ bể, thường làm nghề đánh cá, mò châu. Chỉ cho chúng ở các vùng bể. Nếu chúng ra vào, thì phải xét chúng đi đâu, kẻo sợ chúng làm trinh thám cho Giao Chỉ" (LTK).
Tại chín huyện thuộc Quế Châu, Quách Quỳ ra lệnh bắt 8.500 bảo đinh, 91.200 các hạng khác. Bảo đinh được cấp tiền gấp hai những hạng kia, vì bảo đinh có thể dùng làm chiến binh (LTK). Do đó, quân tuy nhiều, nhưng là ô hợp, ngôn ngữ bất đồng, khó điều khiển, nên giá trị chiến đấu không đều.
Chủ lực Tống là bộ binh. Quách Quỳ và Triệu Tiết đều là những tướng giữ bắc thùy, quen với lính cưỡi ngựa vùng cao nguyên và sa mạc, nên cuộc nam chinh lần này, Quách Quỳ đã đem theo một vạn con ngựa. Tống cũng chuẩn bị một toán thủy binh phối hợp với bộ binh, nhưng thủy binh Tống tới khi hữu sự, mới chiêu nạp hay cưỡng bức đám dân chài lưới ở dọc bờ bể tòng quân, và rất ít được tập luyện; hơn nữa, thủy binh không có chiến hạm, như vậy làm sao so được với thuỷ binh của ta vốn đi chiến trận và có truyền thống đánh đuổi quân Hán – Tống, dưới thời Ngô Quyền – Lê Đại Hành, lập nên những chiến công hiển hách, làm khiếp vía kẻ địch.
Về Lương Thực Và Chuyên Chở
Vua Tống hạ chiếu lấy ở Kinh Phong 1000 cỗ xe, đóng 1000 thuyền đáy bằng để chở tiền và lương thực, và phải dùng tới bốn vạn phu khuân vác. Ti chuyên vận xin 45 vạn quan để mua 50 vạn thạch thóc (mỗi thạch bằng 10 bát). 44.800 thạch đậu, hơn 36 vạn bó cỏ, và trâu, dê, lợn, rượu. Ngày 28-10-1076, vua Tống cấp thêm 150.000 quan, giao cho Quảng Đông mua lương thảo. Theo Lý Bành Nhật: "Lương khẩu cần cho 10 vạn quân và một vạn con ngựa ăn trong một tháng phải có 40 vạn phu chuyên chở. Một tháng đã vậy; huống chi, từ nay đến lúc tới sào huyệt giặc, không phải chỉ một tháng mà thôi. Nay tính cho rộng rãi, trừ phần quân và ngựa tự chở lấy, trừ phần có thể lấy ở địa phương sản xuất; còn dư, ta sẽ mua trâu bò mà chở. Dọc đường, ta lại làm thịt, sẽ cấp cho các đồn điền cày. Làm như thế ta có thể giảm bớt phu. Ta lại bỏ bớt những đồ không cần gấp. Ta sẽ dùng xe lừa kéo, cho đi đi, lại lại, mà chở. Nói tóm lại, ta có thể bớt số phu đi một nửa, còn 20 vạn mà thôi" (LTK). Cũng vì thiếu phu khuân vác, Ty An Nam chiêu thảo đã phải bỏ bớt một nửa tên bằng sắt, chỉ mang theo 32.400 cái mà thôi.
Về Y Dược
Theo viện Hàn Lâm y quan chọn 75 bài thuốc trị lam chướng, và sai sở hạp dược chế thành tể, rồi mang theo quân. Vua tống còn sai thái y cục chế 30 bài thuốc chữa lam chướng, bảo sứ đem giao Ti An Nam hành doanh tổng quản, và truyền 5, 7 lương y gửi gấp theo quân.
Đại quân Tống sẽ kéo xuống, tập trung tại châu Ung, phân phối đóng ở các thành, trại, dọc theo biên giới các châu thuộc nước ta: Quảng Nguyên, Môn Châu, Quang Lang và Tô Mậu. Quách Quỳ cũng ra lệnh cho viên Hàm hạt Quảng Đông là Hòa Mân cùng Dương Tùng Tiêu đem thủy binh từ Quảng Đông dọc ven biển tiến vào hải phận Vĩnh An.
Bắt đầu tháng 8 năm 1076, những cánh quân Tống đã đột nhập miền đất nước ta, do Thẩm Khởi cầm đầu, đánh chiếm châu Vĩnh An.
Tháng 10, Yên Đạt đánh vào châu Quảng Nguyên (Cao Bằng), một vị trí chiến lược của ta, mà có lần Quách Quỳ đánh giá rất quan trọng: "Quảng Nguyên là cổ họng của Giao Chỉ. Có binh giáp mạnh đóng ở đó. Nếu ta không đánh lấy được, thì sau khi ta đi sâu vào đất chúng, quân ta sẽ bị đánh cả mặt trước và mặt sau".
Lưu Kỷ đốc thúc 5.000 quân cự chiến, nhưng đến ngày 1-1-1077, Quảng Nguyên bị mất.
Ngày 8-1-1077, Quách Quỳ dẫn đại quân từ Tư Minh, Bằng Tường (giáp giới phía bắc châu Quang Lang nước ta) theo đường, qua ải Nam Quan đánh vào ải Quyết Lý, bị quân ta –do phò mã Thân Cảnh Phúc chỉ huy –chặn lại ở đây. "quân Tống không thể tiến, Quỳ sai quân cung tiễn thủ lấy nỏ bắn vào voi. Voi sợ, quay chạy, dẵm xéo lên quân Lý. Quân Lý tan vỡ. Quyết Lý mất"(LTK). Ở mặt tây, Khúc Trân rời Quảng Nguyên, tiến quân sang đông nam đánh Môn Châu. Ở mặt đông, quân Tống từ các Lộc Châu, Tư Lang tiến vào Tô Mậu
Quân Tống đóng trên một tuyến dài 60 dặm (khoảng 30 cây số) từ bến đò Như Nguyệt đến gần núi Nham Biền.
Bờ bên này là quân của ta trấn ngự.
Dòng sông Như Nguyệt trở thành chiến tuyến thiêng liêng mà Lý Thường Kiệt đã "tiên liệu" chọn làm nơi phòng ngự cuối cùng nhằm chặn đứng cuộc tiến công của địch vượt sông, chiếm lấy kinh đô Thăng Long. Ông đã sai đắp đê nam ngạn cao như một bức thành đất.
Ngoài đê, đóng cọc tre mấy từng lớp để làm giậu. Quân ta đóng dọc theo sau lũy tre dài gần 100 cây số, sẵn sàng đón đánh địch, nếu chúng chực qua sông.
Đại bản doanh quân ta đóng ở Thiên Đức và Thăng Long. Còn thủy quân chia làm hai ngả: một, do Lý Kế Nguyên đốc suất, giữ sông Đông Kênh (Vân Đồn), để chặn thủy quân Tống không để lọt vào nội địa; một, đóng ở Lục Đầu vùng Vạn Xuân để tùy cơ ứng biến.
Phòng tuyến ta rất kiên cố. Mà quân Tống lại không có thuyền để qua sông. Thủy quâncũng không thể tới. Quân Tống bị chặn đứng ở bên kia sông Cầu. Quách Quỳ sai bắc cầu phao, đóng bè lớn, mỗi lần, chở đuợc 500 quân sang sông, hết lớp này đến lớp khác, rầm rộ tiến công vào phòng tuyến của ta. Quân ta từ trên bờ cao đánh xuống quân Tống, phần bị chết, phần xin hàng, đạo quân đã qua sông hoàn toàn tan rã.
Đã hai lần quân Tống vượt sông thì cả hai lần đều thất bại nặng nề.
Quách Quỳ chán nãn, thất vọng, không dám nghĩ đến việc vượt sông nữa, và ra lệnh: "Ai bàn đánh sẽ bị chém".
Tống Thần Tông trước kia từng dặn Quách Quỳ: "Phải lo việc An Nam cho chóng xong. Khi đem quân vào cõi chúng, ta phải đánh cho chóng được. Sau khi bình được Giao Châu, sẽ đặt châu huyện như ở nội địa". Giấc mộng bá chủ trên đây nhằm "chinh phục nước ta và sáp nhập đất đai ta vào Tống", đã không thể nào thực hiện được.
Hơn một tháng bị lún chân ở bên kia khúc sông Như Nguyệt, quân Tống lâm vào tình trạng bi đát: lương thực ngày một vơi dần, đường tiếp vận quá xa xôi, phu phen thiếu thốn, lại bị quân ta chặn bít kín các ngả, không thể nào chuyển được lương thực tới nơi. Sau lưng địch, những toán quân nhỏ của ta vẫn không ngừng hoạt động quấy phá. Cộng vào đó, thời tiết đang chuyển dần sang nóng nực – sức nóng dữ dội của mùa hè – không thích hợp với quân Tống. Số quân lính và phu vận chuyển mệt mỏi, chết dần chết mòn mất quá nửa, số còn lại cũng bị ốm đau. "Lương ăn của chín đạo quân đã cạn. Lúc ra đi, quân có 10 vạn, phu có 20 vạn. Vì nóng nực và lam chướng, quân phu đã chết mất quá nửa rồi. Còn non nửa, cũng đều ốm" (LTK).
Thời cơ và hoàn cảnh rất thuận lợi cho ta chuyển sang thế phản công. Hai hoàng tử Hoàng Châu và Chiêu Văn, theo kế hoạch đã vạch sẵn, dẫn 500 chiến hạm, đổ bộ vài vạn quân đánh vào trận tuyến địch ở vùng sông Kháo Túc (sông Cầu gần núi Nham Biền) để nhử địch về hướng này, rồi kéo quân xuống thuyền trở về căn cứ địa, bị quân địch bắn đá như mưa làm thuyền chìm. Quân ta bị chết đuối khá đông và hai hoàng tử cũng đã hy sinh anh dũng. Nhưng sau đó, vào một đêm không trăng sao, đại quân của ta, do Lý Thường Kiệt chỉ huy, mở cuộc TỔNG PHẢN CÔNG bất ngờ đánh úp vào doanh trại chính của địch. Quân Tống đại bại.
Trước khí thế chiến thắng oanh liệt ấy, Lý Thường Kiệt dõng dạc đọc vang trước ba quân bài thơ lẫm liệt bất hủ:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Tạm dịch:
1) Nước Việt nam, vua Nam quản trị
Sách trời vạch định rõ.. biên cương
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Quyết đánh không tha, buộc chúng hàng.
2) Vua Nam ngự trị nước Nam ta
Ranh giới… sách trời đã vạch ra
Quân giặc, cớ sao sang cướp phá?
Bọn ngươi chuốc lấy nhục thua mà!..
Bài thơ ngắn, vỏn vẹn chỉ chó 28 chữ. Mà hồn thơ là hồn của dân tộc nên lời thơ như sấm sét đã tác động tâm lý người đọc (hay nghe) đến phải sửng sốt rợn tóc gáy. Toàn bài thơ chứa đựng cả một nội dung triết lý "chính trị nhân sinh", nói lên sức lớn mạnh của một nước Đại Việt Tự Chủ (mà) Lý Thường Kiệt là người đại diện triều đình, đại diện cho toàn thể quốc dân, tuyên bố lúc mở cuộc tổng phản công diễn ra tại khúc sông Như Nguyệt. Với lời thơ ấy, đã khích động lòng yêu nước, trí thông minh sáng tạo, sức dũng cảm phi thường của tướng sĩ ta: cương quyết đánh đuổi quân xâm lăng nhà Tống ra khỏi bờ cõi, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ gìn nền độc lập thống nhất của dân tộc, mở ra một Sinh lộ mới đầy tự hào, phấn khởi cho con cháu mãi muôn đời về sau…
Sau cuộc thắng trận ở sông Như Nguyệt và khi đã nắm vững tình hình một cách chủ động, Lý Thường Kiệt cũng như triều đình nhà Lý, (thấy đã đến lúc) đứng ra đặt vấn đề điều đình để Gỡ thế kẹt cho địch, đồng thời nhằm chấm dứt chiến tranh, để mưu lợi cho dân tộc: "Không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu mà bảo toàn được tôn miếu, xã tắc"
Công việc thương lượng được tiến hành gấp. Quách Quỳ đang ở trong thế bí, như một kẻ sắp chết đuối vớ được phao, vội vã nhận "giảng hoà", rút quân về nước.
Quách Quỳ bùi ngùi than thở với những thuộc hạ của y: "Ta không đạp đổ được sào huyệt giặc, bắt được Càn Đức, để báo mệnh triều đình; đó là tại trời! Thôi ta đành liều một thân ta, chịu tội với triều đình, để mong cứu hơn mười vạn nhân mạng”
Tháng 3 năm 1077, đang đêm, Quách Qùy cho lệnh rút quân. Các bộ binh và kỵ binh hoảng hốt rút chạy trong cảnh hỗn loạn "giày xéo lên nhau để mong được thoát chết trở về nước". Quân Tống rút đến đâu, quân ta theo sát đến đó và thu hồi những đất đai bị địch chiếm đóng (các châu: Quang Lang, Môn, Tô Mậu, Tư Lang) một cách nhanh chóng, dễ dàng.
Riêng châu Quảng Nguyên (Cao Bằng), nơi sản xuất nhiều khoáng sản quí, nhà Tống toan tính chiếm làm thuộc địa. Nhưng triều đình ta nhất quyết đòi. Cho mãi đến tháng 11 năm 1079, vua Tống đành phải giao trả lại châu Quảng Nguyên.
Cuộc chiến tranh xâm lăng do nhà Tống phát động với chủ ý “thôn tính nước Đại Việt” bị thất bại, đã làm hao tổn rất nhiều nhân mạng, vật lực, tài sản…
Sau khi rút quân về nước, kiểm điểm lại thì: “Lúc ra đi quân có mười vạn, phu có 20 vạn, và một vạn con ngựa. Lúc trở về chỉ còn 23.400 người và 3.174 con ngựa. Phí tổn hết 5.190.000 lượng vàng” (dẫn theo sách LTK), còn sách ĐVSKTT chép: "Khi quân ta đánh chiếm thành Ung Châu, giết hết 58.000 người. Cộng với số người chết ở các châu Khâm – Liêm lên đấn 10 vạn. Đấy là chưa kể số người bị quân ta bắt sống (ở 3 châu ấy) đem về…"
Lịch Sử Việt Nam, tập I, đã ghi lại những thành tích cuộc kháng chiến chống Tống dưới thời vua Lý Nhân Tông: "Do thắng lợi oanh liệt của cuộc kháng chiến mà trong suốt cả thời kỳ thống trị ở phương bắc từ đó về sau, trong khoảng 200 năm, nhà Tống không dám đụng chạm đến đất nước ta. Dù chí xâm lược của nhà Tống thực sự đã bị đè bẹp dưới sức mạnh đoàn kết đấu tranh kiên cường, bất khuất và trí tuệ sáng tạo của dân tộc ta. Ý nghĩa lịch sử quan trọng của cuộc kháng chiến là buộc nhà Tống, năm 1164, phải công nhận nước ta là một vương quốc độc lập" (Sđd trang 181).
Về Luật Pháp
Thời Đinh Lê chưa có luật pháp thành văn nên mọi hình phạt đối với tội nhân rất nặng. Vua Đinh Tiên Hoàng cho "đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi và qui định: người nào trái phép sẽ bị bỏ vào vạc dầu hay cho hổ ăn" v.v.. Qua thời Lê vẫn giữ nguyên hình phạt cũ. Theo lời sớ của Tống Cảo, thì nhà Lê xử tội rất tuỳ tiện: "Tả hữu có lỗi nhỏ cũng giết đi, hoặc đánh từ 100 đến 200 trượng (trg). Bọn giúp việc, ai hơi có điều gì làm phật ý cũng bị đánh từ 30 đến 50trg, truất làm tên gác cổng, khi hết giận lại gọi về cho làm chức cũ".Tất nhiên, Tống Cảo cố ý xuyên tạc sự thật để bôi nhọ triều đình của nước Đại Cồ Việt, song cũng thấy buổi đầu mới lập quốc, vừa thoát khỏi nạn 12 sứ quân, tất phải dùng đến hình phạt nặng nề, cốt nhằm trấn áp những cuộc nổi loạn; để ổn định tình thế, giữ gìn nền thống nhất độc lập của quốc gia.
Sang đến nhà Lý, khi Lý Công Uẩn vừa mới lên ngôi, đã tuyên bố: "trong nước ai có việc gì oan ức, tranh kiện nhau cho đến triều đình tâu, vua sẽ đích thân giải quyết".
Năm 1040, Lý Thái tông xuống chiếu: "từ nay mọi việc kiện tụng trong nước ủy cho Khai hoàng vương Nhật Tông quyết định, và lấy điện Quảng Vũ làm nơi xét xử.
"Bấy giờ việc từ tụng phiền nhiễu, các quan giữ pháp luật chỉ cốt dụng ý thâm độc và khắc khổ, nhiều việc oan uổng, vua lấy làm thương đau, sai quan trung thư định ra luật lệnh, chia làm môn loại, biên thành điển mục, làm riêng hẳn thành Hình Thư" (VSTA).
Năm 1042, vua ban hành bộ Hình Luật đầu tiên ở nước ta,mở ra một đường lối cho ngành tư pháp. Luật pháp được triệt để tôn trọng. Các cách tra hỏi phạm nhân cũng được cải cách, xác định các trường hợp giảm khinh và khoan hồng cho những người già yếu hoặc kẻ vị thành niên (những người tuổi từ 70, 80 trở lên, 15 tuổi trở xuống, cùng những người tật bệnh yếu đau, người cư tang độ một năm có phạm tội…) và cho phép lấy tiền chuộc tội, nếu không phạm vào tội Thập Ác, tức là: mưu phản:lật đổ nền cai trị của nhà nước; mưu đại nghịch: phá đền đài, lăng tẩm nhà vua; mưu loạn: phục vụ địch quốc;ác nghịch: mưu giết hay đánh ông bà, bố mẹ, trốn thuế; bất đạo: vô cớ giết người;Đại bất kính: lấy trộm các đồ tế trong lăng tẩm, làm giả ấn vua;bất hiếu: cáo giác hay chửi rủa ông bà, bố mẹ, tự ý bỏ nhà, phân chia tài sản, cưới xin khi có tang bố mẹ, vui chơi trang sức trong khi tang chế, được tin bố mẹ, ông bà chết không chịu tang chế;bất mục: mưu giết hay bán các thân thuộc (cho đến 5 đời);bất nghĩa: giết quan lại sở tại, hoặc thầy dạy, không để tang chồng, ăn chơi và tái giá;nổi loạn: tức là loạn luân (thông dâm với thân thuộc với các thiếp của bố hay ông)"
Dưới đây là một số điều luật có quan hệ giữa nhà nước và người dân, như: Ấn định các thứ thuế của mỗi ngành nông, công, thương, quyền tư hữu ruộng đất, tôn trọng nhân phẩm, bảo vệ sức lao tác, sản xuất và của cải… những quyền lợi thiết thực của người dân, đã được triều đình chính thức xác nhận:
Năm 1013, sau khi hết hạn xá thuế, vua Thái Tổ ấn định các sắc thuế thuộc các loại:
- Chằm hồ, ruộng đất;
- Tiền và thóc về bãi dâu;
- Sản vật ở núi, nguồn các phiên thần;
- Mắm muối vận chuyển qua các biên ải;
- Sừng tê, ngà voi và các hương liệu của người Mán;
- Các thứ gỗ và hoa quả ở đầu nguồn.”
"Năm 1014, nhân mở hội La Hán ở Long Trì, vua tha những người bị tội đày, bị tội đồ và tha ½ thuế cho cả nước.
"Những năm đại hạn, lụt lội, mất mùa đói kém, triều đình cũng chú ý giúp đỡ, hoặc mở kho phát chẩn tiền, gạo, hoặc tổ chức các việc đắp đường, làm cầu để sử dụng lao động giúp những người nghèo đói".
Những năm được mùa hay có việc vui, vua xuống lệnh xá thuế, tô. Năm 1017, lại xá tô ruộng cho toàn dân. Năm 1018, tha ½ tô ruộng cho thiên hạ.
Năm 1117, lý Nhân Tông xuống chiếu: "Kẻ nào bắt trộm hoặc thịt trâu bò phải phạt 80 trượng và tội đồ làm tang thất phu, nghĩa là bị tội đồ ở các nơi nuôi tằm. Ngoài ra, còn phải bị hoàn lại giá tiền con vật. Các người láng giềng không tố cáo tội phạm cũng sẽ bị phạt theo luật định".
Năm 1123, vua lại xuống chiếu, nhắc lại một lần nữa, điều luật trên: "Trâu là một vật quan trọng cho việc cày cấy, lợi cho người không ít. Từ nay về sau 3 nhà làm một "bảo", không được giết trân ăn thịt, ai làm trái trị tội theo pháp luật".
Năm 1142, Lý Anh Tông ban hành những điều luật liên can đến vấn đề điền địa, để tránh sự tranh chấp giữa chủ điền và tá điền: "Các ruộng cày cấy đã đem cầm cố có thể chuộc lại trong một thời hạn là 10 năm. Các vụ tương tranh về điền thổ không thể xin vua xét xử, sau một thời hạn 5 hay 10 năm".
"Phàm ruộng vườn bỏ hoang, đã có văn tự bán đứt, không được chuộc lại. Trái lệnh sẽ bị phạt 80 trượng".
"Các ruộng cày cấy hoặc bỏ hoang, đã có văn tự bán đứt, không được chuộc lại. Ai trái lệnh cũng phạt vạ cùng một tội.
"Kẻ nào tranh nhau ruộng, mà dùng dao đả thương hoặc đánh người đến chết sẽ bị phạt 80 trượng và bị tội đồ. Các ruộng, ao tương tranh sẽ phải đền cho người bị thương hay bị giết".
Năm 1171, vua xuống chiếu cho các quan trong triều biên soạn quyểnĐịa Dư Toàn Quốc.Đây là cuốn sách địa lý đầu tiên của nước ta.
Luật nhà Lý đượm vẻ từ bi của Đạo Phật, không gay gắt như luật nhà Đinh. Trường hợp điển hình: 1) Nùng Trí Cao, sau khi bị bắt vì nổi loạn, mà cũng được khoan hồng, tha cho tội chết; 2) vua Chiêm Thành, là Rudravarman III, bị bắt; 3) vị trạng nguyên đầu tiên của nước Đại Việt là Lê Văn Thịnh mắc tội phản nghịch cũng được tha cho tội chết… Nhà Lý đã có một độ lượng khoan dung tột bực, về phương diện luật pháp: ngoài tội Thập Ác, tất cả tội khác đều có thể được chuộc bằng tiền.
Chính Lý Thái Tông đã có tinh thần pháp lý rất cao, khi nhận xét các tội nhân. Vua đã truyền lệnh bắt phải đối xử tử tế với kẻ tội nhân, vì có thể họ chưa được xét xử một cách công minh và còn đương trong tình trạng khả nghi.Nhân quyền đã được tôn trọng triệt để, chỉ vì họ vốn là một con người. Họ chỉ bị cô lập, mất tự do với bản thân trong sinh hoạt xã hội thôi, chứ họ vẫn phải được ăn no, mặc ấm, mà nếu đau ốm thì vẫn phải được chạy chữa. Nhà Lý đã có cái nhìn"nhân bản", đối với tội nhân. Vậy, tất cả mọi tội đều nên được khoan hồng.
Năm 1065, Lý Thánh Tông ngồi xử kiện ở điện Thiên Khánh, bên cạnh có công chúa Động Thiên đứng hầu, vua đã chỉ vào công chúa mà biểu lộ lòng thương dân đến cực điểm bằng lời phán cùng các quan coi việc xử kiện: "Ta yêu con ta thế nào thì các bậc cha mẹ trong thiên hạ (họ) cũng yêu con cái họ như thế. Trăm họ vì không hiểu luật pháp nên phạm tội, ta rất thương xót! Vậy từ nay về sau, ta muốn rằng các tội, dù nặng hay nhẹ, cũng được xử một cách khoan hồng:
Hình luật nhà Lý năng tính giáo hóa, cải huấn hơn là trừng trị. Tiền bạc có thể được sử dụng để chuộc một số tội. Như vậy, phạm nhân có thể được coi như là một bệnh nhân suy nhược thể xác và thác loạn tinh thần, cần được chữa trị chứ không bị tru diệt. Họ được khoan hồng và rồi có thể được các thân nhân dùng tiền chuộc ra. Như thế sự mãi lực của đồng tiền mới có giá trị hoạt lực rất mạnh, đủ kéo luôn sự phát triển thương mại lẫn vấn đề canh tác và tình thân yêu giữa các người thân thuộc. Ở các nước Âu Mỹ, sự tôn trọng nhân quyền chỉ mới có từ cuối thế kỷ 18 và mãi đến giữa thế kỷ 20 mới được Liên Hiệp Quốc công nhận.
Xã hội triều Lý có tính cách củng cố cho sự cường thịnh của quốc gia, nên yếu tố khoan hồng, giáo hóa và đoàn kết, xây dựng phải được chú trọng đặc biệt. Phương pháp cai trị của triều Lý không thể dùng con người luật gia "pháp trị" thuần túy như kiểu tư sản, phong kiến của Trung Hoa, trước thời đệ nhất thế chiến.
Đạo Phật đã ảnh hưởng rất rõ rệt vào luật pháp nhà Lý. Các nguyên tắc nhân quả và yếu tố cộng đồng như Tứ Nhiếp Phápđã được sử dụng triệt để. Nông dân có thể yên tâm làm ăn. Dù ai bị nghèo khổ có bất động sản phải đem cầm cố thì cũng có đủ thời gian làm ăn để chuộc lại. Như vậy người nông dân không còn lo bị phá sản. Ruộng hoang nếu được khai khẩn thì người khai khẩn không bị chủ ruộng đòi lại hoặc đối xử bất công. Đất là vàng. Người dân canh tác không sợ bị ức hiếp tước đoạt và bần cùng hóa nữa. Bám vào đất để phát triển cuộc sống phú cường, con người sẽ có hạnh phúc.
Đời nhà Lý, về luật pháp có tính cách giáo hóa rất từ bi ở trong nước nhưng… trái lại, đối với ngoài nước, thì lại tùy nghi áp dụng một cách khắt khe, nhất là đối với nước lớn như Trung Hoa, khi phán quan Lê Văn Thịnh được cử sang nhà Tống đòi lại các đất mà người Tàu đã xâm chiếm ở biên cương, và các thổ ty ở nơi biên địa đã bội phản triều đình đem dâng vua Tống, khi Lý Thường Kiệt kéo quân sang đánh phá và đòi lại đất đai, thì chỉ được vua Tống thuận trả lại đất mà người Tống đã chiếm, còn đất do các người thổ ty dâng hiến thì không chịu trả.
Nhà Lý đã phải rất mệt nhọc khai hóa và bình định các người Việt gốc thiểu số. Vấn đề an sinh xã hội thật là phức tạp, thế mà nhà Lý đều vượt thắng được tất cả… Giáo lý từ bi trí tuệ của Đạo Phật đã tác hưởng trong đời sống tinh thần những người cầm quyền, khiến họ không lo trục lợi, hẹp hòi, biết nhìn thẳng vào trung tâm xã hội nông nghiệp là: (bằng mọi cách) phải tạo cho mỗi người dân đều có "công ăn việc làm", tức là chăm lo đời sống no ấm hạnh phúc của họ.
Nhà nước có luật pháp, nhưng luật pháp không quá khắt khe, e dân không chịu nổi sẽ bội phản. Mà nếu luật pháp lại quá lỏng lẻo thì kỷ cương phép nước thiếu hiệu năng. Mục đích của luật pháp nhà Lý có tính cách giáo hóa, răn đe hơn là trừng phạt, nên xã hội triều Lý từ vua, quần thần đến thứ dân (trong cả nước) ai nấy đều thực hành "Lục Hòa Pháp"có tinh thần tín nhiệm lẫn nhau; từ bi yêu thương tràn ngập.
Về Kinh Tế và An Sinh Xã Hội
1. Nông Nghiệp
Chính sách ruộng đất dưới thời nhà Lý chia làm 3 loại: ruộng công (hay công điền), ruộng phong cấp, ruộng quốc khố. Nhưng, trên mặt pháp lý, tất cả ruộng đất đều thuộc quyền của nhà vua quản trị. Tục ngữ có câu: Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt" đó là sự phản ảnh hiện có trong ký ức người dân: ruộng đất là thuộc quyền của nhà vua. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những từ hữu ruộng đất cũng đã phát triển: ruộng đất của hương (làng), giáp nào vẫn do hương, giáp đó quản lý và phân phối cho người dân cày cấy.
"Tất cả ruộng đất công phải đặt dưới quyền sở hữu tối cao của nhà vua nên nông dân cày ruộng đất công phải nộp tô thuế, lao dịch và đi lính. Mức tô thuế qui định là 100 thăngthóc mỗi mẫu (LSVN, I).
"Nhà nước qui định trích ra một số hộ nông dân hoặc ruộng của công phong cấp cho các quan đại thần có nhiều công lớn. Nguyên tắc: Phong cấp tính theo số hộ khẩu thực phong và thực ấp. Những hộ thực phong và thực ấp phải nộp tô thuế và có khi phải lao dịch đi lính cho người được phong" (LSVN, t1).
- "Lý Thường Kiệt, vị lão tướng có công lớn với nước được phong tước Việt quốc công, được cấp 4.000 hộ thực phong và 10.000 thực ấp".
- "Lý Bất Nhiễm, châu mục châu Nghệ An có công đánh lui quân Chiêm Thành và Chân Lạp, được thăng tước hầu, và được cấp 1.500 hộ thực phong và 7.500 thực ấp".
- "Lưu Khánh Đàm, giữ chức thái úy thời Lý Nhân Tông, tước khai quốc công, được cấp 3.000 hộ thực phong và 6.700 thực ấp".
Tục truyền rằng: "Lê Phụng Hiểu có nhiều công trong việc dẹp loạn 3 vương và đánh Chiêm Thành, Lý Thánh Tông muốn thưởng tước cho, nhưng Phụng Hiểu không nhận, chỉ xin đứng trên núi Băng Sơn (Thanh Hóa) ném con dao lớn ra xa hơn 10 dặm, rơi xuống nơi nào thì khoanh vùng nơi đó lại để lập nghiệp. Vua bằng lòng. Phụng Hiểu ném con dao ra xa hơn mười dặm, rơi xuống làng Sa Mi, vua lấy vùng đó ban cho ông. Từ đó có tên ruộng thác đao (chém dao), một cái tên gọi các ruộng phong cấp cho công thần". (LSVN, thế kỷ X – 1427, q1 t2).
Nông nghiệp là nguồn tài nguyên chính yếu của nhà nước. Ngay khi mới lên ngôi, Lý Thái Tổ đã xuống lệnh cho những người phiêu tán về quê quán làm ăn. Nhà nước cũng nghĩ đến việc làm giảm sức lao tác của nông gia nữa. Năm 1042, lý Thái Tông hạ lệnh cấm giết trâu bò vì: trâu bò không chỉ là vật quan trọng cho việc cày cấy (mà) còn làm tăng ích thóc lúa rất nhiều – việc này đã nói ở Mục Luật Pháp – Mặt khác, để tránh sự ngập lụt hay xảy ra vào những mùa mưa dầm, nhà nước trung ương còn chỉ thị cho toàn dân trong và ngoài kinh thành phải đắp đê ngăn nước lụt. Năm 1168, nhà Lý cho đắp đê Cơ Xá (đê sông Hồng ở vùng Thăng Long). Các địa phương gần sông đều có lệ phòng lụt ngập. Nền nông nghiệp nước ta chủ yếu là nghề trồng lúa. Vậy, việc đắp đê là có công hiệu vừa ngăn nước lũ từ nguồn đổ về hay từ biển tràn vào, vừa giữ nước để tránh nạn hạn hán; hòng ngăn chặn những tổn thất về mùa màng của giới nông gia, đồng thời giữ cho đất ruộng được màu mở, lúa được xanh tốt, sự thu hoạch sẽ gia tăng, do đó đảm bảo được mức sinh hoạt phồn thịnh của toàn dân.
Các vua triều Lý rất chú trọng đến việc sản xuất nông nghiệp và khuyến khích bằng hành động cụ thể: hằng năm vua thường ra ruộng làm lễ:“tịch điền" hạ cày.
"Mùa Xuân năm 1038, Lý Thái Tông đã ngự giá ra Bố Hải Khẩu cày ruộng tịch điền. Sau khi làm lễ Thần Nông, vua ra ruộng cày. Bấy giờ, các quan ngăn lại:"Đó là việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế?" Vua đáp: "Trẫm không tự cày thì lấy gì để xướng xuất thiên hạ?" Nói rồi đẩy cày ba lần và thôi".
vua cũng thường đi xem cày hay xem gặt hái ở hành cung. Những việc làm trên tuy có tính cách nghi lễ tượng trưng nhưng (nó) có một tác dụng tâm lý khuyến khích cần thiết cho sự phát triển nền kinh tế thịnh vượng của quốc gia không ít.
2. Thủ Công Nghiệp
Dưới thời Nhà Lý, công nghiệp đã phát triển tốt đẹp. Nhà nước có công xưởng gọi là "Cục bách tác", chuyên chế tạo binh khí, đồ trang sức, đóng thuyền, đúc tiền, đúc chuông, xây dựng cầu cống, cung điện chùa đền v.v... Thợ làm trong các xưởng này đều tuyển lựa những tay thợ giỏi trong dân gian. họ làm việc lâu năm, có kinh nghiệm, do đó trình độ kỹ thuật khá cao. Họ đã đúc những chuông lớn ở các chùa, điện của nhà vua. Năm 1010, Lý Thái Tổ phát 1.680 lạng bạc để đúc chuông lớn ở chùa Đại Giác. Năm 1014, vua lại phát 310 lạng vàng để đúc chuông chùa Hưng Thiên, và 800 lạng bạc để đúc chuông chùa Thắng Nghiêm và lầu Ngũ Phượng. Năm 1035 , Lý Thái Tông phát 6000 cân đồng để đúc chuông chùa Trùng Quang. Năm 1041, vua cấp 7560 cân đồng cho việc đúc tượng Di Lặc và chuông đặt tại viện Thiên Phúc ở núi Tiên Du. Nam 1056, Lý Thánh Tông phát 12.000 cân đồng để đúc chuông lớn đặt ở chùa Sùng Khánh Báo Thiên. Vua tự làm bài minh khắc vào chuông. Năm 1080, Lý Nhân Tông cho đúc chuông chùa Diên Hựu (Sử không ghi rõ số đồng dùng cho việc đúc chuông), chuông đúc không kêu, bèn vứt xuống ruộng Qui Điền, cạnh chùa. Đời sau tướng Minh là Vương Thông bị Lê Lợi vây ở Thăng Long, bèn phá chuông để đúc súng (LTK).
Các thợ chế tạo vũ khí cũng rất tài năng, đã chế tạo nhiều loại súng lớn nhỏ v.v... Nghề dệt lụa, nuôi tằm, ươm tơ vốn là nghề cổ truyền của dân tộc ta. Những thợ dệt giỏi, ngoài việc dệt lụa thường để cung cấp cho người dân dùng,đã dệt gấm vóc, thảm gấm. Nghề làm đồ gốm cũng rất tinh xảo, triều đình ra lệnh cho người dân làm ngói để lợp nhà. Gạch lớn, có trang trí hình tháp, hoa, rồng. "Chén, bát, cốc, dĩa đều tráng men đẹp, nhiều hình loại khác nhau. Tượng bằng đất nung nhiều và đều tráng men". Nghề làm đồ trang sức bằng vàng, bạc, thêu đan, đúc đồng, rèn sắt, nhuộm vải, làm giấy, khắc bản in gỗ v.v..
Riêng nghề in sách ở nước ta phải chờ đến cuối thế kỷ XI do thiền sư Tín Học sáng thiết và thực thiện. Lúc đầu, thiền sư chỉ mới thử nghiệm khắc và in bằng mộc bản các kinh sách Phật Học; sau thấy sự tiện lợi, nhà nước cũng đã áp dụng để in những văn bản như sắc, dụ, sớ, điệp v.v... Nghề khai mỏ cũng được phát triển. Được biết: Châu Quảng Nguyên (thuộc địa phận Cao Bằng) là nơi ruộng ít, rừng núi trùng điệp, có nhiều vàng bạc. Vùng Ngân Sơn (nghĩa là núi bạc), Nguyên Bình, Thạch An (Đại Nam Nhất Thống Chí) xưa có lò vàng bạc, phía tây, thông với vùng Tuyên Quang, Hà Giang ngày nay; ở đó có nhiều mỏ vàng, mỏ bạc, mỏ đồng, mỏ chì và thiếc. Năm 1039, Đặng Vũ Kiến thuộc châu Quảng Nguyên dâng nhà nước một khối vàng sống nặng 112 lạng. Huyện Liên, châu Lộng Thạch, châu Định Biên (thuộc Cao Bằng) tâu rằng ở bản xứ có mỏ bạc. Năm 1062, nhà Lý bắt đầu khai thác các mỏ đã được báo. năm 1198, nhân dân châu Lạng sản xuất thiếc trắng, đồng. Số lượng đồng lớn trong kho nhà nước dùng đúc chuông, tượng, tiền v.v.. phát xuất ra từ các mỏ. Cách khai mỏ còn thủ công và mang tính chất thô sơ (LSVN, tk X – 1427, Q1 t2).
3. Thương Nghiệp
Nước ta buổi ấy cũng rất phát đạt. Sự giao lưu giữa các miền trong nước và các lân bang vẫn có từ trước. Các vua nhà Lý cho đúc tiền để tiện việc trao đổi. Hiện nay khảo cổ học tìm thấy đủ các loại tiền từ Thuận Thiên Thông Bảo của Lý Thái Tổ cho đến các tiền thời Trần và tiền đồng Trung Quốc (thời Đường, Tống).
Để tạo cho việc thuyền bè đi lại trong nước được tiện lợi, nhà Lý cho đào vét các sông ngòi, đắp đường, làm cầu. Năm 1051, đào kênh Lãm (thuộc Bắc Thái). Năm 1192, khơi sâu sông Tô Lịch. Các đường giao thông vận tải thủy bộ và hệ thống trạm dịch được mở mang, phía bắc lên đến biên giới Trung Hoa, phía nam vào tận Chiêm Thành. "Việc lưu thông hàng hóa và trao đổi sản phẩm nhờ đó được mở rộng". Thăng Long, ngay từ khi Lý Thái Tổ mới dời đô về đây, nó không những chỉ là trung tâm của chính trị và văn hóa của cả nước, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế quan trọng, nơi cửa ngõ thu hút người ở khắp bốn phương lũ lượt kéo về tụ họp buôn bán tấp nập ở chợ cửa Đông. Nhà cửa dựng lên san sát qua từng dãy phố dài.
Năm 1035, nhà nước cho mở chợ cửa Tây. Sau đó lại cho lập thêm chợ cửa Nam. Sự quan hệ buôn bán giữa nước ta và các nước láng giềng, theo Lịch Sử Việt Nam, tập 1 ghi:"Quan hệ buôn bán với nước ngoài có chung biên giới như Trung Quốc, Champa, việc buôn bán chủ yếu thực hiện qua vùng biên giới. Riêng ở vùng biên giới Việt – Trung, đời Lý đã xuất hiện những trung tâm buôn bán lớn như Vĩnh Bình, Hoành Sơn, Khâm Châu. Đó là những chợ khá tấp nập ở vùng biên giới. Nhân dân và lái buôn hai nước thường đem hàng hóa đến đó trao đổi. Chính quyền hai nước cũng có khi phái sứ đến mua những thứ hàng cần thiết.
Nhân dân và lái buôn nước ta thường bán các thứ làm thổ sản như hương liệu, sừng tê, ngà voi… các hải sản như cá, muối… và mua về chủ yếu là gấm vóc, giấy bút…
"Việc buôn bán với các nước khác ở vùng Đông Nam Á như Xiêm La, các nước vùng đảo In-đô-nê-xi-a (như Qua-Ca tức Gia Va, Tam-Phật-Đề tức Pa-Le-bang ở tây Gia Va và đông Mã-Lai)… thực hiện bằng đường biển. Thuyền buôn các nước này được đến buôn bán ở Vân Đồn (Cẩm Phả, Quảng Ninh). Đó là một thương cảng quan trọng đời Lý nằm trong vịnh Bái Tử Long nổi tiếng của đất nước. Nhà Lý kiểm soát chặt chẽ ngoại thương để đề phòng âm mưu do thám của nước ngoài, nhưng không hạn chế quan hệ thông thương đó" (Sđd trang 158).
Những thành quả về kinh tế trên đây thật cần thiết, vì nó đã giúp cho đời sống của con người được sung túc; nền văn hóa dân tộc được xây dựng và phát triển một cách tốt đẹp. Con người tạo ra của cải. Cũng chính tư tưởng con người đã biết sử dụng của cải do mình làm ra để tạo nên nếp sống văn minh. Các ngành văn học, mỹ thuật, kiến trúc từ đó được nảy chồi, nở hoa, kết trái sum suê…
Xã hội Việt Nam, dưới thời đại nhà Lý, về cuộc sống vật chất, có thể nói, tương đối được ổn định. Đôi khi có xảy ra những vụ thiên tai, mất mùa, đói kém ở một vài địa phương thì vẫn được nhà nước ưu ái xuất công khố, phát lương thực, tiền của để trợ cấp cho nhân dân nơi đó có phương tiện làm lại cuộc sống.Con người, dù gặp cảnh ngộ cùng quẫn túng thiếu, vẫn không bị xã hội bỏ quên. Về phương diện sinh hoạt tâm linh, mỗi hương, giáp đều có dựng chùa, đình, văn chỉ (chùa để thờ Phật; đền là nơi thờ Thành Hoàng, những vị Anh Hùng dân tộc; văn chỉ để thờ đức Khổng Tử và các vị tiên nho). Mỗi hương, giáp còn mở chợ để buôn bán, trao đổi hàng hóa với nhau, tạo nên một nếp sống xã hội người đầy tình nghĩa thương yêu đầm ấm…
Mỗi năm, toàn dân Việt đều có tổ chức ăn mừng tết năm mới để đón xuân. Vì mùa xuân là mùa của đất trời, cây cỏ, chim muông, của con người và vạn vật đều đổi mới: nhờ có tiết trời trong lành, mát mẻ, muôn hoa đua nở, chim chóc cũng hoan ca để đón mừng một mùa xuân mới.
Nước ta vốn là nước nông nghiệp, con người quanh năm bận rộn làm ăn vất vả, mệt nhọc, nên vào những tháng rảnh rỗi như tháng 2, 3, tháng 7, 8 đều có mở hội hè đình đám, tha hồ múa hát, vui chơi lành mạnh, như bơi thuyền, đánh đu, đấu võ v.v.. (đều có mục đích rõ rệt): vừa để di dưỡng tinh thần yêu đời vừa vận động cho thân thể được tráng kiện để rồi sau đó mỗi người lại sẵn sàng tiếp tục đi vào công việc làm ăn chuyên nghiệp của mình: người làm ruộng, trồng dâu thì chăm lo việc đồng áng cày cấy…, người làm thợ mộc, thợ chạm, thợ xây, thợ dệt vải… (chắc hẳn) mỗi năm sẽ có thêm kinh nghiệm tay nghề, tạo ra những vật dụng, hàng hóa được tinh xảo hơn…
Mọi người, mỗi người đều được tự do phát triển tài năng của mình, làm ra của cải dư thừa, hầu xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho chính bản thân, cho gia đình và cho đất nước mỗi ngày thêm giàu mạnh.
- Một cuộc sống văn minh, đượm tình người thương yêu đùm bọc, dưới thời đại nhà Lý ở Việt Nam, thế kỷ XI – XIV.
Về Giáo Dục và Thi Cử
Theo sách Văn Học Đời Lý thì nước ta theo học chữ Hán kể đã lâu lắm:
- Từ đời Sĩ Nhiếp,
- Từ đời Tích Quan,
- Từ đời Triệu Đà (207 – 111 T tl)
Tuy vậy không cần biết từ đời nào, nhưng vẫn có thể quả quyết rằng: "Cái học từ đời Bắc thuộc trở đi đến đời nhà Ngô, chỉ là học để giao thiệp với người Tàu, không phải học để thâu thái văn hóa của họ. Sự học hãy còn lỗ mỗ, sơ lược, cho nên trong hơn ngàn năm nó không để lại một dấu vết gì.
“Xuống đời nhà Đinh, đại khái cũng vẫn mực ấy – Nếu không thế thì sao Tiên Hoàng lại đặt cho nước mình cái tên nửa chữ, nửa nôm? – Quốc hiệu nước ta lúc ấy mang tên Đại Cồ Việt.
Đến nhà Tiền Lê, hình như đã vượt được qua bậc đó" (Sđd trang 19, 20).
Phải chờ đến đời nhà Lý, chế độ giáo dục và thi cử mới bắt đầu. Nho giáo được nâng đỡ triệt để và có địa vị trong xã hội. Tuy nhiên, trong xã hội buổi ấy, Phật giáo vẫn giữ ưu thế. Các vị thiền sư vẫn giữ địa vị quan trọng.
Nước Đại Việt được hùng cường là do sự kết hợp giữa hai dòng Thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi và Vô-Ngôn-Thông mà các vị quốc sư, thiền sư là những người đã hiến dâng trọn cuộc đời mình để phụng sự quốc gia dân tộc và đạo pháp, như các ngài: Pháp Bảo, Sùng Phạm, Vạn Hạnh, Sùng Nghiêm, Huệ Sinh, Minh Không, Bảo Tịnh, Khánh Hỷ, Viên Thông(Phái Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi) …; và dòng Thiền Vô-Ngôn-Thông có các ngài:Định Hương, Đa Bảo, Viên Chiếu, Cứu Chỉ, Thông Biện, Mãn Giác, Ngộ Ấn, Thường Chiếu, Không Lộ, Giác Hải, Quảng nghiêm v.v...đồng thời về mặt tư tưởng, các ngài đã sáng tác và dịch thuật rất nhiều kinh sách làm vẻ vang cho Đạo Phật Việt.
Phải nói rằng bao nhiêu khó khăn xảy ra trong quốc gia buổi ấy đều do nhà vua và các vị quốc sư, thiền sư hứng chịu, giải quyết êm đẹp.
Do đấy có nhiều người lầm tưởng rằng nhà Lý đã thiên vị nâng đỡ Phật giáo và không trọng dụng Nho giáo. Thật là sai lầm. Triều Lý khi đã nhận nhiệm vụ đặt lại nền móng quốc gia cho vững bền lâu dài, thì không bao giờ lại có ý gây hiềm khích chia rẽ giữa các tập đoàn văn hóa hay các nhóm có khả năng tạo áp lực đối với chính quyền. Không ai cấm đạo Nho hoạt động. Chính thực tế thì Nho giáo hãy còn ảnh hưởng phần nào đối với chính quyền. Như đã thấy, buổi đầu khai nguyên nhà Lý, dù lúc ấy đã có ngài Vạn Hạnh và các vị thiền sư khác đã nhận làm cố vấn cho Lý Thái Tổ, và chính hoàng đế Lý Thái Tổ là một Phật tử được giáo hóa từ cửa Thiền; thế mà, trong bài Chiếu Thiên Đô do chính tay vua thảo và công bố vào năm canh tuất, niên hiệu Thuận Thiên năm đầu (1010), lại không hề có lấy một chút nào gọi là văn hóa cửa Thiền cả. Như vậy thì biết rõ môn đệ của Khổng giáo đã tự cảm thấy bất lực trước thời thế, nên không hoạt động một cách tích cực nữa.
Xem tờ "Chiếu Thiên Đô", thấy rõ các môn sinh cửa Khổng sân Trình đã quá mang nặng mặc cảm bất lực, sinh ra bỏ mặc văn hóa đạo lý Khổng Mạnh, không lo chấn hưng gì cả. Vì nhu cầu đoàn kết quốc gia, kiến lập sự bền vững cho giang sơn xã ắc, và sau một thời gian chờ đợi mà không thấy ai chú tâm đến giáo lý đức Thánh Khổng, nên năm 1070 (tháng tám năm canh tuất, niên hiệu Thần Vũ thứ II), vị vua thứ III dòng họ Lý, là Thánh Tông (1054 – 1072), mới trực tiếp xúc tiến chấn hưng Nho giáo, bằng cách cho xây Văn Miếu thờ đức Khổng Tử, tại hướng Nam thành Thăng Long, cho tô tượng Chu Công, Khổng Tử và tượng Tứ Phối (4 vị phối hưởng là Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử), rồi vẽ tượng Thất Thập Nhị Hiền và cho xây Văn Chỉ tại các tỉnh, xã. Không phải hoàng đế Thánh Tông làm công việc này với tính cách chiếu lệ an dân, để lấy lòng nho sĩ. Vua còn tích cực biến Văn Miếu thành nơi học tập của các hoàng tử. Vua cũng chủ trương và thực hành dâng cúng tế lễ đức Thánh Khổng và chư hiền, xuân thu nhị kỳ. Vua lấy ngày thượng đình để tế ở Văn Miếu, còn ngày trung đình thì tế ở Văn Chỉ hàng tỉnh, và hạ đình tế ở Văn Chỉ hàng xã. Triều Lý luôn luôn nâng đỡ và tìm cách thúc đẩy nho sĩ tích cực ý thức vai trò của mình, trong sự đóng góp cho nền cường thịnh của quốc gia. Vị hoàng đế thứ IV của dòng họ Lý, là Lý Nhân Tông (1072-1127), lại còn hăng hái mở các khoa thi giúp đỡ các sĩ tử của Nho giáo có cơ hội tham chính công khai không bị mặc cảm gì hết.
- Năm 1075 (ất mão, niên hiệu Thái Ninh thứ IV), vua cho mở Khoa Thi Tam Trường để tuyển nhân tài. " Nền Đại Học Việt Nam bắt đâù hình thành từ đó".
- Năm 1076 (tháng tư năm Bính Thìn, niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng thứ I), vua sắc lập Quốc Tử Giám để chọn nhân tài cho hai ngành văn võ.
- Năm 1077 (tháng hai năm Đinh Tỵ, niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng thứ II), vua lại mở kỳ thi lại viên hình luật để lấy người làm quan.
- Năm 1086 (tháng tám năm Bính Dần, niên hiệu Quảng Hựu thứ II), vua cho tuyển nhân tài vào Hàn Lâm Viện.
- Năm 1152 (Nhâm Thân, niên hiệu Đại Định thứ XIII), thi học sinh.
- Năm 1185 (ất tỵ, niên hiệu Trinh Phù thứ X) và khoa Quí Sửu, niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy thứ VIII (1193), thi học sinh trong nước lấy người trúng tuyển vào chầu vua học tập.
Sử chép: Các vua nhà Lý sau này còn mở các kỳ thi vào những năm 1153, 1165, 1185, 1193. Năm 1195, Lý Cao Tông mở Khoa Thi Tam Giáo. Phải nói ngay rằng: Chính buổi đầu chấn hưng Nho giáo, các thiền sư đã là những người tiên phong đem tư tưởng Nho giáo quảng bá trong nhân gian; vì muốn cho các hệ tư tưởng, đạo giáo khác cũng được phát triển như đạo Phật. Chứ không như một thiểu số nhà Nho sau này, nhờ vào thi cử đỗ đạt, được cất nhắc ra làm quan, và vì bản tính hẹp hòi, quay sang bài xích Đạo Phật. Trong số nhà Nho kỳ thị Phật giáo cuối thời nhà Lý có Đàm Dĩ Mông; nhà Trần có Trương Hán Siêu, Lê Bá Quát; thời Hậu Lê có Ngô Sỹ Liên…
Từ khi Nho Giáo chiếm địa vị độc tôn, về phương diện tư tưởng cũng như trên cương vị lãnh đạo quốc gia, cũng chính là lúc đất nước dân tộc ta rơi vào tình trạng phân hóa, khốn cùng". Sự suy đồi diễn ra ở cuối đời Trần - Hồ (1400 – 1407) qua Bắc thuộc nhà Minh (1414 – 1427), tiếp theo là thời Nam Bắc triều Lê - Mạc (1527 – 1592) và Trịnh – Nguyễn phân tranh (1570 – 1799). Rồi tới thời Pháp thuộc (1862 – 1945)…
Chúng tôi không cố ý khơi lại đống tro tàn. Nhưng sự thật lịch sử đã phơi bày. Vậy, nếu ở đây có đề cập đến vấn đề là cốt nhằm "cảnh giác" – chứ tuyệt đối không mang một chút mặc cảm nào hết – để từ đó, chúng ta rút tỉa lấy những kinh nghiệm đắt giá do tiền nhân đã mắc phải mà đừng bao giờ đi theo vết xe cũ nữa.
…Dưới nhãn quan Phật giáo, khi nhìn cuộc đời (vốn dĩ) phiền tạp, rối rắm, và đầy những bất trắc, khổ đau, người Phật tử chân chính vì sẵn có một tinh thần ẩn nhẫn, bao dung và tha thứ, nên đã đứng ngoài vòng danh lợi tranh chấp của thế nhân, nhưng tâm hồn lúc nào cũng hướng đến hạnh nguyện "giác tha" nên đã dấn thân vào đời, làm mọi việc, nhất là về phương diện tinh thần, giáo dục quần chúng.
Muốn hiểu trình độ văn minh một người nào người ta chỉ cần quan sát, thẩm định dân tình, dân trí – tác phong, cách sống của từng cá nhân cũng như điều kiện sinh hoạt chung của xã hội – mà có thể đo được mức giá trị văn minh của nước ấy, hoặc cao hay thấp. Do đấy, công việc giáo dục quần chúng được coi là nhiệm vụ hàng đầu của các thiền sư đời Lý. Các ngài đã tạo nên những con người biết sống cho mình đồng thời cũng biết sống hữu ích cho tha nhân và cho xã hội nữa.
Con người là chủ động của mọi vấn đề. Con người tốt (đã) là nhân tố để xây dựng một xã hội tốt lành. Con người xấu (sẽ) làm cho xã hội xấu lây. Xã hội đời Lý là một xã hội văn minh, vì có những con người tốt được đào tạo bởi một nền giáo dục "nhân bản", lấy con người làm mực thước cho tất cả…
Như trên cho thấy, dưới triều đại nhà Lý, không chỉ riêng Đạo Phật được tôn sùng và phát triển mạnh, mà Nho giáo, Lão giáo cũng được triều đình đặc biệt lưu tâm nâng đỡ. Nền đại học và việc thi cử nước ta bắt đầu được tiến phát, đồng thời còn là cơ duyên thuận lợi dẫn đến sự hình thành một nền văn học dân tộc – Văn học Lý – Trần.
Về Văn Học
Trước khi tìm hiểu nền văn học đời Lý, thiết tưởng cũng nên nhìn lại hai thời Đinh – Lê xem thế đứng của Phật giáo lúc ấy đã có những ảnh hưởng gì để từ đó, chúng ta khả dĩ có một nhận định chính xác, Nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi viết trong Việt Nam Cổ Văn Học Sử:
"Đạo Phật truyền bá trong dân gian đã rộng. Một vài đạo viện vừa là chỗ tu hành vừa là nơi học tập, đã sản xuất được số đông nhà thơ, nhà văn, trong số đó có nhiều nhân tài ra giúp việc nội chính cũng như ngoại giao cho triều đình.
"Năm 971, Đinh Tiên Hoàng lên ngôi, lúc ban định chức tước cấp cho các quan cũng định luôn giai phẩm cho hàng tăng đạo có công giúp nước. Đứng đầu có chức Tăng thống trao cho Ngô Chân Lưu và ban hiệu là Đại sư Khuông Việt – Hiệu này có nghĩa: chống đỡ nước Việt – kể cũng đặc biệt, đủ biết vị Hoàng đế ở Hoa Lư rất chuộng Đạo Phật và cái công việc vạn thắng nhờ ở Đại sư khá nhiều.
"Nhà Lê kế chân nhà Đinh cũng ưu đãi tăng đồ, từng sai sứ qua Tàu thỉnh Cửu kinh và Đại Tạng (1007). Vua Đại Hành còn dùng cha con Sư Mahà, người Chàm về dịch kinh sách bối diệp bên Tiểu thừa để truyền rộng Phật học, nhưng cũng không cạnh tranh nổi với môn phái hai nhánh Thiền tông của Vinitaruci và Vô Ngôn Thông.
Nói tóm lại, trong khoảng thế kỷ thứ X, cửa chùa đã đóng một vai trò quan trọng về văn học. Cũng vì thế mà Đạo Phật ở Việt Nam từ đó càng lắm tín đồ và được chính phủ vì nể" (Sđd trang 96, 97).
Qua những nhận định trên cho thấy: Đạo Phật thời Đinh – Lê đã có một địa vị vững chãi trong dân gian. Các ngài Ngô Chân Lưu, Đỗ Pháp Thuận đã chính thức công khai làm cố vấn chỉ đạo cho triều đình. Chỉ khác một điều là các ngài lúc nào cũng vẫn là nhà tu hành. Sự dấn thân "nhập thế hành đạo" của các ngài là hoàn toàn do lòng nhiệt thành vì đạo pháp, vì dân tộc thúc đẩy; trong lúc hoàn cảnh nước nhà vừa mới giành lại quyền độc lập. Rất có thể trước đó các ngài đã ngầm giúp mưu kế cho Vạn thắng vương Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân mà dựng nên nghiệp nhà Đinh. Cho nên ngay sau khi thành lập vương triều, định quan chức cho những người hữu công đối với Tổ quốc, đồng thời cũng để tỏ lòng tri ơn Phật giáo, vua đã tặng ngài tăng thống Ngô Chân Lưu làm Khuông Việt Đại sư.
… Để mở đầu cho một nền văn học dân tộc, về thể thơ, thì bài "từ" của Đại sư Ngô Chân Lưu viết thay vua Lê Đại Hành để tiễn sứ thần nhà Tống là Lý Giác lúc trở về Tàu dưới đây được coi là đóa hoa đầu mùa đã nở trong vườn thơ văn Việt Nam, thế kỷ thứ X.
Nguyên văn bài từ ấy như sau:
Trời quang, gió thuận, cánh buồm giương
Dõi theo sứ thần về cố hương
Ngàn trùng non nước vượt đại dương
Xa xôi hút dặm trường
Tình thắm thiết, xin nâng chén rượu lên đường
Cầm tay nhau, lòng vấn vương...
Nhờ đem ý nguyện người biên cương
Bày tỏ với thượng hoàng.
Tường quang, phong hảo, cẩm phàm trương.
Dao vọng thần tiên phục đế hương
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang
Cửu thiên qui lộ trường
Tình thảm thiết, đối ly thương
Phan luyết sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị biên cương
Phân minh tấu ngã hoàng[77]
Trong lời tựa tập sách Toàn Việt Thi Lục, Lê Quí Đôn đã đưa ra những nhận xét về tình hình sinh hoạt văn học dưới hai triều đại Lý – Trần:
"… Nước Việt ta ngay từ buổi đầu dựng nước cũng đã văn minh không kém gì Trung Hoa. Bài từ của thời Tiền Lê tiễn sứ thần Lý Giác nhà Tống, lời lẽ bóng bẩy nõn nà, có thể vốc được. Đến các vua nhà Lý đều là những bậc giỏi chữ hay thơ, nhưng nay không biết tìm kiếm vào đâu, chỉ thấy sách Thiền Uyển Tập Anh còn chép được của vua Thái Tông hai bài, của vua Nhân Tông hai bài. Cho đến các vua nhà Trần cũng rất mến thích sáng tác thơ văn, mỗi vị đều có tập thơ riêng, nhưng đã rơi rụng mất mát nhiều, trong Việt Âm Thi Tập chỉ còn thấy độ vài ba chục bài. Nói chung thì hồn thơ Lý – Trần rất phóng khoáng, tình cảm cao siêu mà thanh nhã, phong vị phảng phất THIỀN NGỮ, nên đã tạo được tiếng vang có ảnh hưởng sâu rộng đến chính sự và giáo hóa đương thời"…
(Ngã bang triệu khải văn minh vô tốn Trung Hoa. Lê tiên hoàng tống Tống sứ Lý Giá nhất từ, uyển lệ khả cúc. Lý gia Thánh, Nhân nhị tông giai năng thư công thi, kim vô khả khảo. Thái Tông nhị thủ, Nhân Tông nhị thủ, cẩn kiến Thiền Uyển Tập Anh. Trần triều chư đế, tối ái đề thi, các hữu thi tập, tán lạc thất truyền, kiến ư Việt âm, cẩn sổ thập thủ, đại để thác hứng di khoáng, ký tình cao nhã, phong vị dật nhiên do tồn. Tuy thiền ngữ vi đa, diệc túc kiến đương thời chính giáo, thanh âm chỉ ngạnh khái…) (Sđd trang 22).
Nói về nền văn học đời Lý, khi nền văn học nước ta mới bắt đầu hình thành, những công trình sáng tác thơ văn của các thiền sư và văn, thi sĩ thời ấy, còn truyền lại đến nay, được ghi trong các sáchThiền Uyển Tập Anh; Việt Âm Thi Tập của Phan Phu Tiên; Toàn Việt Thi Lục và mục Nghệ Văn Chí trong bộ Đại Việt Thông Sử (hay Lê Triều Thông Sử) của Lê Quí Đôn; mục Văn Tịch Chí trong bộLịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phán Huy Chú; và bộĐại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên v.v..
Các tuyển tập phú và tản văn thì phải kể đến một bộ sách quan trọng về thể phú: Quần Hiền Phú Tập của Hoàng Tụy Phu, và truyện tích có: Việt Điện U Linh của Lý Tế Xuyên vàLĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp v.v.. Trên chặng đường phát triển một nền văn học dân tộc, ở đây, ta có thể hình dung được sự kết quả rực rỡ của nó, theo như lời nhà sử học Phán Huy Chú, mục Văn Tịch Chí trong bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, thì: "Nước Việt ta được gọi là nước giữ lễ đã hơn nghìn năm. Sách vở thư tịch vốn ra đời từ lâu lắm. Kể từ Đinh, Lê dựng nước, đã đứng ngang hàng với Trung Hoa; mệnh lệnh, từ chương dần dần rõ rệt. Đến Lý, Trần nối trị, văn vật mở mang; về thẩm định thì có những sách điển chương, điều luật; về tiếp nối, văn nhã rỡ ràng. Huống chi, nho sĩ đời nào cũng có, văn chương nảy nở như rừng. Trứ tác mỗi ngày một nhiều. Nếu chẳng phải trải qua cướp bóc, đốt phá mà hóa tro tàn, thì hẳn là trâu kéo đến tót mồ hôi, chứa đầy đến tận xà nhà".Và tiến sĩ Hoàng Đức Lương, người biên soạn Trích Diễm Thi Tập năm 1497, trong lời đề tựa sách đó, đã than vãn: "… Còn như thơ các đời Lý – Trần thì không có căn cứ nào để khảo sát, đính chính. Một đôi khi có nhặt được dăm chữ nửa câu ở nơi chỗ "giấy rách vách nát" thì vỗ sách mà than thở, có ý thầm đổ lỗi cho các bậc học thức tài danh đương thời. Thán ôi! Há có một nước văn hiến, dựng nước đã mấy nghìn năm, thế mà không có lấy một chút sách vở gì làm bằng, chẳng cũng đáng đau xót lắm thay!
Rồi ông kể tiếp: "Thế mà tất cả những gì thu nhập được cũng chỉ là một hai trong trăm ngàn phần. Bèn chọn lọc rộng thêm ở những trứ tác của các vị đang tại triều, nhặt lấy những gì tinh tuý nhất, rồi sắp xếp, phân loại thành các thiên, được sáu quyển, đặt tên là Trích Diễm.
Vả chăng, việc phẩm bình, cân nhắc, văn chương mà có chút ý vị, là ở chỗ, cốt sao các thơ văn được truyền bá rộng ra, ngõ hầu tránh được lời chỉ trích của người sau đối với hiện nay, như chúng ta hiện nay đã chỉ trích người xưa vậy.(1)
Thật đáng tiếc! Cả một nền văn học rực rỡ như thế, sau khi nước ta bị nhà Minh cai trị (1407 – 1427), bao nhiêu sách vở của người mình trứ tác, chúng thu nhặt đốt sạch biến thành tro than.
Mãi tới năm 1901, trường Viễn Đông Bác cổ (Eùcole Francaise d'Extrême Orient), thành lập tại Hà Nội mới bắt đầu xúc tiến việc sưu tầm và bảo tồn những di sản văn hóa quốc gia còn sót lại, từ cuối đời Trần – Hồ đến hết thế kỷ XV, gồm các thể loại: thơ, văn, truyện tích, bi ký v.v... Nhưng còn kho tàng kinh sách Đạo Phật Việt thì sao?
Chúng tôi tìm tòi trong các sách đã dẫn, và nhất là cuốn Thơ Văn Lý Trần, đã giúp chúng tôi rất nhiều bản văn quí giá để viết mục này.
Những tác phầm văn học Phật giáo đời Lý gồm có:
Về Thơ
- Ngộ Đạo Ca Thi Tập của Khánh Hỷ.
- Viên Thông Tập của Viên Thông. Cuốn này có tới một ngàn bài thơ.
Về Trứ Tác:
- Bồ Tát Hiệu Sám Hối Văn của Pháp Thuận
- Dược Sư Thập Nhị nguyện Văn của Viên Chiếu.
- Tán Viên Giác Kinh của Viên Chiếu.
- Thập Nhị Bồ Tát Hạnh Tu Chứng Đạo Tràng của Viên Chiếu.
- Tham Đồ Hiển Quyết của Viên Chiếu.
- Chư Phật Tích Duyên Sự, 30 chương, của Viên Thông.
- Tăng Già Tạp Lục, 50 chương, của Viên Thông.
- Pháp Sự Trai Nghi của Huệ Sinh.
- Chư Đạo Tràng Khánh Tán Văn của Huệ Sinh.
- Nam Tông Tự Tháp Đồ của Thường Chiếu. (Do trạng nguyên Lương Thế Vinh viết tựa).
Tất cả sách kể trên đều đã bị thất lạc. Riêng cuốn Tham Đồ Hiển Quyết của thiền sư Viên Chiếu thì có lẽ được trích một đoạn trong sách Thiền Uyển Tập anh mà ta có hiện nay.
Về Minh và Bia
+ Bài minh khắc vào quả chuông chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích (Nhất Thống Chí chép là chùa Vạn Phúc) ở núi Lạn Kha, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, do vua Lý Thánh Tông (1054-1072) xây dựng, thiền sư Huệ Hưng viết bài minh, đề năm Nguyên Hóa thứ 9, triều nhà Lý.
+ Bài minh khắc vào bia tháp Hội Thánh, núi Lăng Giàdo Pháp sư Lê Kim soạn, dựng năm Hội Phong thứ 9.
+ Văn bia chùa Báo Ân, núi An Thạch, trấn Thanh Hóa, do Chu Văn Thường soạn, dựng năm Hội Phong thứ 9 (1100).
+ Văn bia chùa Bảo Ninh, Sùng Phúc (hiện nay bia nằm ở chân núi Đan Hàn, tỉnh Tuyên Quang) do Lý Thừa Ân soạn, dựng năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 7 (1107).
+ Văn bia chùa Diên Phúc, thôn Cổ Việt (?), do nguyễn Công Diễm soạn, dựng năm Hội Tường Đại Khánh thứ 4 (1113).
+ Văn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Khánh, quận Cửu Chân (Thanh Hoá), do đại sư Hải Chiếu (Pháp Bảo) soạn, dựng năm Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (1118).
+ Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, núi Long Đội (thuộc huyện Duy Liên), do Nguyễn Công Bật soạn, dựng năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (1121).
+ Văn bia chùa Viên Quang, huyện Giao Thủy, lộ Thiên Trường, do sư Dĩnh Đạt soạn, dựng năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 3 (1122).
+ Văn bia chùa Hương Nghiêm, núi Càn Ni (Thanh Hoá), dựng năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 5 (1125) (Khuyết danh).
+ Văn bia chùa Linh Xứng, núi Ngưỡng Sơn, xã Ngọ Xá, huyện Vĩnh Phúc, tỉnh Thanh Hóa, do thiền sư Pháp Bảo soạn, dựng năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 7 (1127).
+ Bài ký chùa Báo Ân, ở xã Tháp Miếu, tổng Bạch Trĩ, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, do Ngụy Tư Hiền soạn, dựng năm Trị Bình Long Ứng thứ 5 (1209)
Nền văn học đời Lý có thể chia ra các thể:
1- Thi ca:- Thơ sấm truyền.
-Thơ Đạo lý (hay tâm linh).
2- Tản Văn:Chiếu, biểu, bia, ký…
3- Truyện Tích:Sử truyện, văn ngữ lục, di ngôn của các thiền sư.
Đến đây, ta thử xét hai quan niệm của văn chương đời Lý:
1/ Vũ trụ
2/ Nhân sinh.
Thơ văn đời Lý chịu ảnh hưởng sâu xa của nguồn giáo lý đại thừa Phật giáo, nhất là về Thiền tông và Mật tông, nên "huyền diệu, thần bí lạ lùng!"
Chúng ta thử rút tỉa một vào bài làm tiêu biểu chứng minh cho hồn thơ vừa siêu thoát vừa hiện thực về quan niệm vũ trụ nhân sinh của đời Lý.
Khoảng những năm Thiên Thành Thông Thụy (1034-1036); vua Lý Thái Tông có lần đến thăm chùa Thiên Phúc, đã cùng các bậc kỳ túc bốn phương tham cứu về những yếu chỉ Đạo Phật. Vua nói: "Bàn về nguồn gốc cái tâm của Phật Tổ thì các thánh hiền đời xưa còn chưa khỏi bị chê bai, huống chi những kẻ hậu học. Nay ta muốn cùng các vị trưởng lão trình bày sơ lược ý nghĩ của mình, mỗi người hãy thuật một câu kệ xem ý tứ thế nào?"
Mọi người còn đang suy nghĩ, vua đã làm xong bài kệ:
Bát nhã thực không tông
Người không, ta cũng không
Ba đời các đức Phật
Thể "Pháp tính" chung đồng.
(Bát nhã chân vô tông
Nhân không ngã diệc không
Quá, hiện, vị lai Phật
Pháp tính bản lai đồng).
Đứng về Bản thể luận thì Phật (hay bản thể của vũ trụ vạn hữu) là thể tuyệt đối duy nhất, trong sáng, tự tại, tròn đầy, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt, không bị không gian và thời gian và động lực làm ngăn ngại mà (nó) chu biến khắp pháp giới bao la. Nhưng dời sang Hiện tượng giới, khi vạn hữu đã hình thành, từ một mảy lân hư trần đến trăng, sao, sông, núi, cây cỏ, người và vật, đều mang trong tự thể cái tính dời đổi: vô ngã, vô thường, có, không, còn, mất… Như vậy, cho ta thấy, Bản thể Tuyệt Đối được mệnh danh là Tâm hay Chân Như.
Nói theo Thiền ngữ thì:
"Bát nhã thực không tông
người không, ta cũng không
Ba đời các Đức Phật
Thể "Pháp tính" chung đồng"
Nên giữa Phật (người giác ngộ) và chúng sinh (người chưa giác ngộ) không còn biên giới cách ngăn nữa; ta và người đã hòa chung trong một Nguồn Sống (Pháp tính bản lai đồng) trong sáng, tự tại, tròn đầy, chu biến khắp pháp giới bao la.
Cũng trong dịp gặp gỡ này, thiền sư Huệ Sinh đã trả lời vua Lý Thái Tông bằng một bài kệ mang tính cách triết lý "Bất Nhị" vượt lên trên cả lẽ Có và Không:
Pháp cũng như không pháp
Không có cũng không không
Nếu biết được lẽ đó
Chúng sinh, Phật vốn đồng.
Trăng Lăng Già[85] in bóng
Thuyền đậu bến chân không
Biết không, không là có
Định tuệ chiếu vô cùng.
(Pháp bản như vô pháp
phi hữu diệc phi không
nhược thân tri thử pháp
Chúng sinh dữ Phật đồng
Tịch tịch Lăng Già nguyệt
Không không độ hải chu
Tri không, không giác hữu
Tam muội nhậm không chu)
Lời thơ đẹp như châm ngôn. Khí thơ chuyển động như những nhịp thở của trái tim. Hồn thơ phiêu dật như có thần lực làm thức tỉnh chúng sinh hãy quay về với bản tính trong sáng sẵn có của mình.
Ngôn ngữ là sự thể hiện của tư tưởng, các thiền sư đời Lý quen sống với tư tưởng nên họ nhìn vũ trụ nhân sinh quan bằng quan niệm: Có, Không: "Hữu hình cũng là một với cái vô hình và ngược lại, cái vô hình cũng có thể diễn đạt bằng cái nhìn hữu hình".
Có thì có tự mảy may
Không thì cả vũ trụ này cũng không
Vầng trăng vằng vặc in sông
Chắc chi là có, không không mơ màng[86]
Thiền sư Đạo Hạnh
Cảm sống hết cái triết lý Bất Nhị, các thiền sư đời Lý nhìn thấy đâu cũng là Chân Như.
Thi ca đời Lý, có thể nói, là thứ ngôn ngữ siêu ngôn ngữ, triết lý siêu triết lý, có khả năng rút tất cả thế giới vào một vài chữ (Có – Không) bằng một ý niệm (idée) mà vẫn diễn đạt được hết mọi lẽ sinh hóa của vũ trụ vạn hữu…
Một ánh nắng, một bông hoa nở, một áng mây, một giọt sương rơi đều mang một ý nghĩa mật ẩn sâu xa; tất cả… chỉ là hình ảnh của Tâm hay Chân Như biến hiện và sự sống từ đó tràn lan bất tận vô thủy vô chung.
Phụ chú: Dưới đây chúng tôi xin trích một số ít bài thơ và văn bia của các vị thiền sư đời Lý để chúng ta suy ngẫm về những thiền ngữ đã có "ảnh hưởng sâu trong chính sự và giáo hóa đương thời".
Thiền sư NGỘ ẤN:
Diệu tính hư vô bất khả phan,
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan.
Ngọc phần sơn thượng sắùc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị can.
Dịch:
Chân Như Diệu Tính"… vô ngôn thuyết,
Chỉ ngộ Chân Như mới hiểu thôi,
Trên núi ngọc thiêu màu tỏa sáng
Trong lò sen nở sắc khoe tươi.
Thiền sư VIÊN CHIẾU:
Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh
Trú tắc kim ô chiếu,
Dạ lai ngọc thố minh.
Dịch:
Dưới giậu, cúc thu nở
Đầu cành chim xuân ca,
Ngày ngày mặt trời chiếu,
Đêm đến trăng hiện ra.
Thiền sư MÃN GIÁC:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Dịch:
Xuân đi, trăm hoa rụng
Xuân đến nở… trăm hoa.
Trước mắt, đời chuyển biến!
Đầu xanh tuyết điểm pha…
Đừng nghĩ:
Xuân tàn hoa rụng hết
Bên thềm, mai nở trắng... đêm qua!
Đoàn Văn Khâm truy tặng thiền sư CHÂN KHÔNG
Hạnh cao triều dã chấn thanh phong,
Tích trụ như vân mộ tập long.
Nhân vũ hốt kinh băng tuệ đống
Đạo lâm trường thán yển trinh tùng!
Phần oanh bích thảo thiêm tân tháp.
Thủy trám thanh sơn nhận cựu dung.
Tịch tịch thiền quan thùy cánh khấu,
Kinh qua sầu thính mộ thiền chung.
Đoàn Thăng dịch:
Tiếng lừng ngoài nội với trong triều,
Môn đệ rồng mây quấn quít theo
Thương xót nhà nhân cây cột đổ,
Ngậm ngùi vườn đạo gốc tùng xiêu.
Non xanh tưởng thấy chân dung cũ
Tháp mới bên mồ cỏ biếc leo.
Vắng vẻ cửa Thiền ai kẻ gõ,
Qua đây buồn lắng tiếng chuông chiều.
(TVLT, TI)
Thiền sư KHÔNG LỘ:
Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Kiều Thu Hoạch dịch:
Kiểu đất long xà chọn được nơi
Tình quê lai láng chẳng hề vơi
Có khi xông thẳng lên đầu núi
Một tiếng kêu vang, lạnh cả trời.
(TVLT TI )
Nguyễn Lang dịch:
Chọn nơi địa thế đẹp sông hồ
Vui với tình quê quên sớm trưa
Có lúc trèo lên đầu chóp núi.
Kêu dài một tiếng lạnh hư vô.
(VNPGSL TI)
Đoàn Văn Khâm vãn Thiền sư QUẢNG TRÍ:
Lâm loan bạch thủ độn kinh thành,
Phất tụ cao sơn viễn cánh hinh
Kỷ nguyện tịnh cân xu trượng tịch,
Hốt văn di lý yếm thiền quynh.
Trai đình u điểu không đề nguyệt,
Mộ tháp thùy nhân vị tác minh.
Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt,
Viện tiền sơn thủy thị chân hình.
Ngô Tất Tố dịch:
Lánh chợ vào rừng, tóc bạc phơ
Non cao giũ áo ngát hương thừa.
Trùm khăn những muốn hầu bên chiếu,
Treo dép đà nghe khép cửa chùa.
Trăng dọi sân trai, chim khắc khoải,
Tháp không bia chữ, mộ thờ ơ.
Bạn thiền thôi cũng đừng thương xót!
Non nước ngoài am, đó dáng xưa.
(VHĐL, TI)
Thiền sư KHÁNH HỶ:
Lao sinh hưu vấn sắc kiêm không,
Học đạo vô qua phỏng tổ tông.
Thiên ngoại mịch tâm nan định thể,
Nhân gian thực quế khởi thành tùng.
Càn khôn tận thị mao đầu thượng,
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.
Đại dụng hiện tiền, quyền tại thủ,
Thùy tri phàm thánh dữ tây đông?
Đồ Nam Tử dịch:
Cõi trần chi kể sắc cùng không,
Học đạo thì theo phép tổ tông.
Tâm ngoài trời dễ tìm đâu thấy,
Quế cung trăng há xuống đây trồng.
Nhật nguyệt thu vào trong hạt cải,
Kiền khôn hiện giữa lỗ chân lông.
Đại dụng sao cho tay nắm chắc.
Nào ai thánh trí, ai phàm dong.
(Ng. S. Đuốc Tuệ)
Đào Phương Bình dịch:
Kiếp trần khoan nói sắc cùng không,
Học đạo gì hơn hỏi tổ tông.
Tâm kiếm ngoài trời không định thể,
Quế trồng cõi tục há đâm bông,
Mảy lông chứa cả kiền không rộng
Hạt cải thu gồm nhật nguyệt trong.
Trước mắt, nắm ngay công dụng lớn,
Ai hay phàm thánh với Tây Đông.
(VTLT, TI)
Thiền sư KHÔNG LỘ:
Vạn Lý thanh giang vạn lý thiên,
Nhất thôn tang giá nhất thôn yên.
Ngư ông thùy trước vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền.
Kiều Thu Hoạch dịch:
Trời xanh nước biếc muôn trùng,
Một thôn sương khói, một vùng dâu đay
Ông chài ngủ tít ai hay,
Quá trưa tỉnh dậy, tuyết bay đầy thuyền.
(TVLT, TI)
Thiền sư QUẢNG NGHIÊM:
Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ,
Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh.
Nam nhi tự hữu xung thiên chí,
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.
Dịch:
Lìa tịch diệt, bàn câu tịch diệt,
Chứng vô sinh hãy thuyết vô sinh.
Tài trai tự chủ tròn thiên chí;
Khoan… vọng Như Lai – thẳng lộ trình…
Thiền sư MINH TRÍ:
Tùng phong thủy nguyệt minh,
Vô ảnh diệc vô hình
Sắc thân giá cá thị,
Không không tầm hưởng thanh.
Nam Trân dịch:
Gió cành thông, lòng sông trăng sáng,
Bóng cũng không, hình dáng cũng không.
Sắc thân, thân sắc đều không,
Như tìm tiếng dội trong vòng hư vô.
(TVLT, TI)
Thiền sư THƯỜNG CHIẾU
Đạo bản vô nhan sắc,
Tân tiên nhật nhật khoa.
Đại thiên sa giới ngoại
Hà xứ bất vi gia.
Dịch:
Đạo vốn không nhan sắc,
Ngày phô vẻ gấm hoa.
Cả đại thiên sa giới,
Đâu chẳng là quê nhà.
Và dưới đây là Bia Tháp, Sùng Thiện Diên Linh của Vua Thứ Tư (nhà Lý) Đương Làm Chủ Nước Đại Việt do Triều liệt hình bộ thượng thư, binh bộ viên ngoại lang, đồng tri phiên công viện chư sự, thần NGUYỂN CÔNG BẬT phụng sắc soạn, kể lại cuộc đời, công nghiệp của vua Lý Nhân Tông và việc xây dựng Tháp cùng một số công trình kiến trúc khác dưới đương triều. Bản văn quá dài, nên chỉ xin trích một đoạn cuối.
"… Kính nghĩ đức hoàng đế, bệ hạ, bậc "Thánh hiền thế đạo, thánh văn thần vũ, anh cách dân vật, vạn linh chiếu ứng, vĩnh long nguyên hóa, thông minh quảng vận, nhân trí ý nghĩa, thuần thành minh hiếu" của triều Lý, là do đất trời chung đúc; nhật nguyệt kết tinh. Cho nên điềm lành báo trước; triệu tốt mở ra. Phụ hoàng nằm mộng, nước ngoài dâng voi trắng sáu ngà; mẫu hậu có thai, gác tía phủ rồng vàng năm sắc. Đó là điềm lúc bệ hạ đầu thai vậy.
….
"Ơn khắp cỏ cây muông thú; trí nhanh gió táp mưa sa. Sách kinh nội điển, tinh thông tới chỗ yếu huyền; pháp thuật ngoại quyền, thâu tóm được toàn tôn chỉ. Đức lớn đẹp như đá vàng, sáng hơn tinh đẩu; đặt tên hay cho điện tháp, chiếu rọi xưa nay. Sành phép viết để thông thần; vận bút vua đến tuyệt diệu. Thế chữ tựa rồng bay phượng múa, phép viết từ tay ngọc viết ra; hình chữ như loan liệng thước bay, thể chữ do lòng vua thể nghiệm. Khắc biển vàng để chốn phạm cung; chọn ngọc tốt đặt nơi đạo quán. Tứ thơ tóm muôn hoa của thợ trời; nhạc phổ hòa âm thanh của nhà Phật. Phép viết chữ thì cùng cứu đến huyền cơ; tài bắn cung thì tinh thông đến diệu thuật. Đó là bệ hạ tinh thông sâu rộng ở chỗ tài nghệ vậy.
"Gặp lúc trung thu cảnh đẹp; muôn việc nghỉ ngơi. Mở lòng thành sửa soạn cỗ bàn; bày lễ thịnh cúng dàng hoàng khảo. Lại tới sớm mồng ba, mới sắm sửa xe giá. Cưỡi xe ngọc ra ngoài chín bệ; lên xe châu giong ruổi đường vàng. Quạt lông trĩ che ở hai bên; kiệu nạm bạc vây quanh bốn phía. Lọng vàng rợp trời: cờ màu lóe nắng. (Như) sao băng rậm liễu; (như) sao chuyển đường hoa. Hướng trường lô sông biếc; ngự điện báu linh quang. Nghìn thuyền như chớp giật giữa dòng; muôn trống như sấm vang dậy nước. Dưới hiên ngọc thết hội đồng phương bá; trong thềm đan tâu chương biểu sứ tiên. Thả rùa vàng đội ba ngọn núi, trên mặt sóng dập dờn; phơi mai văn để lộ bốn chân, dưới dòng sông lờ lững. Liếc mắt nhìn bờ; hé môi phun bến. Ngửa trông giải mũ nhà vua; cúi xét bầu trời lồng lộng. Trông vách dựng cheo leo; dạo nhạc thiều réo rắt. Cửa động mở ra; thần tiên xuất hiện. Đều là dáng điệu thiên cung, há phải phong tư trần thế. Vươn tay nhỏ dâng khúc Hồi Phong (1); nhăn mày thúy ngợi ca vận tốt. Chim quí từng đàn ca múa; thú lành thành đội xênh xang. Tới lúc ác vàng xế bóng; xe báu sắp về. Đến giữa đường bằng phẳng; ở ngoài cõi Quảng Thiên (2). Hướng thẳng đài cao về lục địa; quay lưng rùa lớn đội ba non. Ngắm bàn son mà vẫy đầu, kéo đuôi an phận. Chim líu lo trong mây; hổ hầm hầm xuống núi. Trổ hết oai hùng; cắn vồ thú nhỏ. Gặp lúc Thượng lâm đệ tử, cầm lọng trĩ cán son. Thét thất thanh xô đến trước vua; đắp bãi rộng làm nơi săn hổ. Kéo cung ruổi bắn; rút kiếm vây quanh. Kẻ trổ oai trong chốc lát; người đón đánh lúc bất ngờ. Lân quốc mến nên dắt già bế trẻ; chư hầu vui mà vượt núi băng tường. Chăm chú xét xem chính giáo; ngóng chờ mong thấy mặt vua. Khắp chốn trang hoàng gấm vóc; hàng năm vui vẻ ba ngày. Đưa đời người lên cõi Hồ thiên; đặt dân chúng vào nơi lạc quốc. Đó là việc nhà vua suy xét mà chế tạo rùa vàng vậy.
Làm sáng tỏ sự kỳ diệu của mưu thần, nên chế tạo sự tinh kỳ của thuyền ngự. Theo hình đặt hạm đội tráng hùng; lập cách dựng nghìn thuyền tú lệ. Đặt lầu gác ngất trời; dựng thềm hiên cao vút. Trong đặt tòa thêu cao vọi, để nhà vua rộng tầm mắt nhìn xa; cạnh xen hàng gấm rỡ ràng, cho thể nữ được sẵn sàng hầu cận. Dốc châu báu trang hoàng; đủ ba cung nhà cửa. Giữa dòng buổi sáng lênh đênh, ngỡ hải thần hà hơi chặn sóng; góc bến ban chiều dừng lại, tưởng rùa vàng đội núi chọc trời. Đó là tài chế tạo khéo léo và tân kỳ của bệ hạ vậy.
Rộng vận thần thông; cả suy thánh đoán. Sửa sang thắng sự; chăm tới lương duyên. Dựng đài cao quảng chiếu; hướng sân trước đoan môn. Trong nêu một cột; ngoài đặt bảy tầng. Uốn hình cung nâng lấy sen vàng; may lồng nhiễu che cho ngọn lạp. Dấu cơ vi ở duới đất, như bánh xe xoay chuyển; rực ánh sáng ở giữa trời, như bóng ác chói chang. Lại có bảo thánh rực rỡ trang nghiêm; điện vàng viện báu. Do ý thánh nên; đặt tượng vàng hai dãy, dáng tỏ linh văn; hình phô kỳ lệ. Lại có hai tòa lầu hoa, trong treo chuông vàng, khắc chú tiểu mình mặc áo nâu sồng; vặn máy ngầm giơ vồ chuông lên đánh. Nghe vỗ bao gươm mà đứng nghiêm quay mặt; nhìn thấy thánh minh mà khom cật cúi đầu. (Những việc này) đều nảy ra từ ý nhà vua, muốn sao được vậy. Lại có đài cao thất bảo, xếp thành một dãy, chính giữa có một ngọn núi vàng. Đặt tượng đẹp Như Lai Đa Bảo; bày chân hình xe pháp mấy tầng. Mái hiên lấp lánh ánh mặt trời buổi sáng; màu ngói huy hoàng vẻ mây biếc ban chiều. Thứ đến hai tòa bạch ngân: bên tả đặt chân dung Phật A Di Đà; bên hữu để xá lị của sắc thân mầu nhiệm. Chiều cao mở ra thế khoẻ; vẻ đẹp phô rõ mái cong. Long lanh ngỡ tuyết trắng đang tan; rực rỡ át trăng thu vằng vặc. Thứ nữa lại có hai tòa Điểu văn; bên tả đặt từ nhan của Chính Giác; bên hữu đặt diệu tướng của Bồ Đề. Đã hoàn thành gác lớn; lại xây dựng lầu cao. Nóc che ngói quý; vách chạm hình rồng. Lại thứ nữa có hai tòa ngà voi; bên tả chạm hình dung Phật Cam lồ; bên hữu đặt diệu tướng Phật Bảo Thắng. Gọt mài chất quí; cao dựng cột hiên. Các cạnh nạm ngọc quí, cá khe khảm sừng tê. Lại soạn kỹ những lời ghi đẹp đẽ, đều khắc vào bên cạnh tòa sen. Mở tấm lòng trong trắng; soi sáng mãi đời sau. Lại tả chín phương bằng năm sắc; khắc bốn cột bằng song huyền. Hai bên nghìn đèn nhấp nháy; bốn mặt rực rỡ vàng son. Có thể gọi là: hơn xa chế độ xưa nay; vượt hẳn sinh thành tạo hóa. Dồn hòa vui của thiên hạ, đêm trở thành ngày; thỏa tâm mục của thế gian, già nua nay trẻ lại. Đó là công lao khéo xây dựng thắng duyên của bệ hạ vậy.
Tôn sùng Đạo Phật, hâm mộ thắng nhân. Mở chùa Diên Hựu; ở tại vườn Tây. Dấu vết theo qui mô thuở trước; Lo toan do thánh ý ngày nay. Đào ao thơm Linh Chiểu, giữa ao trồi lên một cột đá, trên cột có một tòa sen nghìn cánh xèo ra. Trên hoa dựng ngôi đền đỏ sẫm; trong đến đặt pho tượng sắc vàng. Ngoài ao có hành lang bao bọc. Ngoài hành lang lại đào ao Bích Trì, bắc cầu cong để đi lại. Ởsân trước cầu, hai bên tả hữu xây tháp lưu ly. Để mồng một hàng tháng, để mùa xuân hàng năm, nhà vua thân ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay. Hương hoa bày hình thức kỳ an; bồn chậu đặt lễ nghi tắm Phật. Trang sức tướng tinh thành cho năm chúng, hoặc hở vai tiến thoái nhịp nhàng; tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng khí cụ bồi hồi nhảy múa. Tinh cần chẳng trễ; kính phụng nào ngơi. Vì vậy mà huyền tạo linh thông, để cùng phù hộ. Đó là bệ hạ dựng chùa thờ Phật để cầu phúc thọ.
Trên vừa trị yên trong nước; dưới đương giúp đỡ lân bang. Bỗng lính thú nơi biên khu trở mặt; gây nên hiềm khích dỡ dang. Vội vàng chống địch; làm nhụt oan thù. Quân châu Ung muôn ức tan tành như mây mù gió cuốn; quân Như Nguyệt trăm vạn đổ vỡ như gặp nắng băng tan. Tự thi hành do viên tướng ngoài biên, đâu có phải lòng vua quyết định. Đưa hoàng cực lên cõi thanh bình; dẫn sinh dân đến nơi giàu có. Quạt gió nhân giáo hóa nước nhà; ra ơn huệ ban cho khắp chốn. (Do đó) Hoàng Vương Xạ Chế lìa cung thất đến chửa khuyết xưng thần; quốc chúa La Vu bỏ đất nước tới đan đình qui phụ. Dốc ý kính yêu bệ ha; nghiêng lòng hướng tới mặt trời. Gần đây bọn mán Ma Sa, cậy có non sông hiểm trở; sinh lòng lang sói, không theo giáo hóa triều đình. Vua ta nổi giận; xe giá lên đường. Mãnh tướng như mây theo; mưu thần như mưa họp. Dàn quân sĩ ở đồng hoang; đánh úp bọn dân hung hãn. Bọn tù trưởng bị bắt; lũ đầu sỏ cầm tù. Ngoài ra thì máu nhuốm cỏ hoang; thây phơi rừng suối. Thả hùm thiêng bắt chuột, nào có khó gì; lăn đá to ép trứng, sao mà dễ thế. Đó là lệ thường mỗi khi bệ hạ dùng võ vậy.
Nhân dân hòa hợp trăm họ yên vui. Mùa xuân ra mắt, dâng kính ngọc ngà; mùa thu vào chầu, trình bày chức vị. Họp các nước chư hầu mà yến thưởng; xây bảo đài cho ba cấp quân tiên. Lợp ngói bạc sáng chói trời xanh; đặt tòa sen phô bày tướng báu. Trên nóc phượng hoàng đứng thẳng; chung quanh rồng lớn đùa vờn. Lọng trang sức thất trân; đai trang hoàng bách bảo. Đó là: thềm trên cao nhất, thánh thượng ngự chơi; bậc giữa tầm thường, cung tần chầu chực. Nhạc quan đứng sắp dưới sân, đều cùng nhảy múa. Ráng sức thiên tài làm nên điệu khúc; vỗ về phiên thuộc xa tới ấp Phong. Lưng trời tiếng át mây bay; hòa sáo vang thêm ân sáng. Đó là đức cao nhất về sửa sang văn giáo của bệ hạ.
Làm chân chủ của đất trời; xét huyền cơ của tạo hóa. Vận trí biến thông; hiểm mưu đầy khắp. Tinh tường âm hưởng nước ngoài; phiên dịch yếu đoan mọi nghệ. Chế ra khúc múa tuyệt vời; tỏ rõ niềm vui đời thịnh. Lại chế khúc "tiên tử xuống mây", véo von tiếng hát, ngợi ca công lớn tiền vương; và khúc "sao băng rời chỗ", uyển chuyển dáng hình, chúc tụng ơn sâu giáo hóa. Đó là sự lo toan nhiệm mầu của bệ hạ vậy.
Đức cùng trời đất, nên năm châu chói sáng; ơn tới cá chim, thì muôn vật dâng điềm. Mười chim rồng thần quang phục thềm quỳnh điện báu; một nghìn voi trắng hộ trì vườn cấm ao tiên. Tỏ rõ sự dài lâu của ngôi báu; hợp phù sự hưng thịnh của phúc lành. Cho nên, trời hiện điềm thiêng; rừng phô vật lạ. Nên voi thần xuất hiện; hình thù to đẹp; trán hiện thần quang. Nghiệm văn thái sạch trong có bậc; bẩm thông minh chiếu rọi không cùng. Vua đặt tên cho "Thần tượng siêu quần". Ưu đàm đưa thơm, Xá lị hiện ngọc; cỏ cây dâng phúc, thần vật báo điềm. Nêu lên sự ban phúc không cùng; chỉ rõ sự truyền ngôi vô hạn. Cỏ thơm mọc hai lượt; hươu trắng đến sáu lần. Nai tuyết lại một con; hoẵng đen về một cặp. Thừa mệnh thiên đế; giữ lâu phúc trời. Dồn dập tỏ điềm lành; song song phô vẻ lạ. Rùa nghìn chấm năm màu; sen hai gương một nhánh. Ơn thấm suối nguồn, vật dâng điềm lạ. Cảm ứng sự yên tĩnh của muôn dân; gợi bảo sự hưng long của xã tắc. Nên: vành trăng tán ở tầng trời; ánh vàng rọi từ khe tối. Tỏ rõ sự sáng soi là hữu hạn; nói lên sự tế đoán là vô cùng. Điềm trời báo phúc; khe tối dâng điềm. Một cây cau tía; nảy lắm mầm thiêng. Giống như các nước bảo vệ triều đình; cũng tựa khắp trời phù trì nguyên thủy. Thời qua chín chục, tiết đến mồng năm. Chuột sinh lông trắng, thông biến lọng nghiêng. Giống như tổ hạc mà dâng điềm lạ; coi rẽ hằng nga để tỏ phúc lành. Hợp với sự thanh bình của bốn bể; hòa cùng sự êm ấm của muôn dân. Sẻ trắng, cưu vàng tụ tập; rồng xanh, cò trắng dâng trình. Dãi tỏ dung nghi trong sạch, nổi lên "duy nhất duy tinh"; đổi thay chất cũ chân thường, theo được "hay nhân hay thứ". Triệu dao chìm, ngựa ký sinh ra; móng mềm nhẹ, trâu đen xuất hiện. Đàn nhạn hợp mà phương xa thần phục; mãnh hổ vờn mà khắp chốn sợ oai. Bươm bướm thành đôi; tuyết lành dầy đọng. Mưa tuyết hạt bay đầy thước; tượng trưng thời đại thái bình. Mượt mà như lông phượng khác thường; rực rỡ như đàn cò thành dẫy. Đàn quạ trắng đua bay; đám ngỗng trời tranh liệng. Tỏ rõ sự tinh cần báo đáp; cảm thông lòng thuần hậu thảo hiền. Đọc Phật kinh trọn cuốn mà không ai sánh kịp; chúc thánh thượng muôn năm mà qui định lệ thường. Cau quả ngậm châu; cành dương rưới ngọc. Điềm lành quanh quất chốn Cửu Long, át xa châu báu, triệu tốt sinh đôi đầy các ngả, vượt tới phương xa.
Ôi ! Vâng chịu phúc dầy trời đất; kế thừa mệnh lớn tổ tông. Hơn năm mươi năm trị nước; hàng bao nhiêu nước sợ oai. Mưa nắng hợp thời; trăng sao đúng độ. người thường nghĩ; việc làm ruộng là căn bản trước tiên, nền chính sự ắt nhờ vào đó. Tuy hàng năm vẫn phải thân hành; nhưng ý chí chưa từng trễ nải. Ngày tháng năm mùa hạ, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ chín (1118), nhà vua cưỡi xe phượng phi tiên; đáp thuyền rồng diệu bảo. Nắng đẹp sóng im; triều lui mây tạnh. Qua dòng Hà Lô; thấy bến Long Lĩnh. Tuy thế núi chênh vênh, nhưng đỉnh vun bằng phẳng. Vua bèn truyền lệnh; buộc dây dừng thuyền. Xuống chiếu cho các quan hộ giá mà bảo họ rằng:
- Trẫm muốn dựng một ngôi chùa ở núi này có được chăng?
Tả hữu bước ra, tâu rằng:
- Chúng thần nghe các cụ già trong làng kể lại; ở núi này cứ đến đầu xuân thì trời thường mưa để nhuần thấm cho muôn dân. Vậy bệ hạ nên dựng chùa, để chóng thành thiện quả. Và xin bệ hạ đặt tên núi này là Long Đội.
Đức vua chuẩn y, bèn hạ lệnh cho viên quan coi ngày, xác định phương hướng; mặt chùa trông ra Kinh, gió lặng sông như lụa biếc dải ra; lưng chùa quay về núi Điệp, mưa tan dáng núi như gấm xanh thêm sáng. Bên hữu khống chế bình nguyên, trông tới lũy cũ Càn Hưng; bên tả men theo sông nhỏ, quanh Hán thủy để ra khơi. Xuống chiếu cho thợ thuyền căng dây nảy mực. Thi của cải làm sáng thêm công đức, khiến quan coi rừng gắng sức để giảm bớt dân tư; chuyển gỗ rừng hết sức thần kỳ, sai thợ mộc giỏi trổ tài để việc làm khéo léo. Lấy đá mân làm đấu; dùng đá vũ dựng hiên. Xây mười ba từng chọc trời; mở bốn mươi cửa hóng gió. Vách chạm rồng ổ; xà treo chuông đồng. Tầng trên đặt hộp vàng Xá lị, tỏa tường quang cho đời thịnh sau này; đỉnh nóc xây tiên khách bưng mâm, hứng móc ngọc dưới bầu trời tạnh ráo. Tầng dưới chia tám tướng khôi ngô; đứng hộ vệ có thần nhân cầm kiếm. Chính giữa đặt tượng Đa Bảo Như Lai: sức thề nguyện sâu rộng; đành hiến cả thân mình. Nghe kệ sen giúp đỡ oai thiêng; lắng kinh Phật chia đôi tòa báu. Treo phướn vàng rực rỡ; cắm lọng tía long lanh. Sân thềm có bậc; lang vũ hai bên. rồi bên tả chùa dựng cung tứ giác: ngậm hai mâm trấn đất; đội tám tướng chầu trời. Nêu cao khí tượng cho danh sơn; truyền rộng thánh công cho hậu thế. Bên hữu chùa, dựng nhà khám nhọn vuông, trong đặt Tân Đầu hòa thượng (là người bị Phật) đày ra Ma Lê sơn. Nhận lời dặn của Như Lai; vì chúng sinh mà chứng phúc. Tầng dưới xây đài Lăng Hán, treo đỉnh khí Thú Sơn; buộc chày kình Bích Hải. Khi đánh thì âm vang tràn ngập ở đường trời; khi nghe thì lưỡi kiếm thôi vung nơi khổ ải. Xây tường bảo vệ; dựng hiên phô trương. Bắc cầu mở rộng đường thôn; trồng bách thành hàng hai dãy. Hết tinh thành tôn sùng hiệu quả, mong cho lịch số dài lâu; hết kiểu lạ xây dựng lầu cao, kỳ vọng tuổi vua thọ mãi. Cho nên nhà vua đặt tên tháp ấy là tháp Sùng Thiện Diên Linh.
Tháp này bắt đầu xây từ niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ chín (1118); đến mùa thu niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ hai (1121) thì hoàn thành. Nhân lúc rảnh mà dựng xây; gặp được mùa mà thiết lập. Trải qua ba vụ cày, bốn mùa lúa chín, sau mới hoàn thành. Đến khi làm lễ khánh thành, sai phụng thường chỉnh đốn ngựa xe; khiến phong bá quét sạch bụi bặm. Khói trầm đàn như mây tỏa khắp sơn khê; bóng cờ phướn như ráng phô đầy các ngả. Chuông trống vang ầm; khánh tiêu inh ỏi. Phía trước xe mây Tam Bảo; đằng sau kiệu báu thánh hoàng. Dốc nghiêng xanh tía sáu cung; về hết trẻ già cả nước. Điện hoa vắt ngang phía truớc; chùa Phật mở rộng bên trong. Hội tăng, ni trai khiết; diễn Giác Đế chân kinh. Hoàng đế nghiêm trang, đọc kệ đoạn cúi đầu tạ lễ, cung nga khép nép, nghe kinh xong dâng sữa múa ca. Thổi cơm chay trắng muốt, thết khách đói qua đường; phát tiền quí ùn ùn, cấp dân nghèo khắp chốn. U hiển đều về; thiên long cùng đến. Đem lực công tối thượng; phúc đức vô cùng. Ca ngợi hoàng cung vững bền như trời đất; cầu mong bảo vận vằng vặc như trăng sao. Sớm sinh thái tử; nối mãi mệnh trời. Mong gốc ngành ngàn thuở, cầu xả tắc muôn năm. Cỏ lướt nhiều phương: quỳ nghiêng muôn nước. Thần dân yêu mến; tổ khảo khuông phù. Thần đạo giúp ngầm; trời người nâng đỡ.
Thái Tổ, Thái Tông và Thánh Tông hoàng đế, định xong bốn bể, nhẹ gót lên tiên, nhờ quả phúc này mà ngự mãi tòa sen; Hoàng Tỷ Phù Thánh Linh Nhân hoàng hậu, chán cõi trần hoàn, ngự chơi mây khói, gội lương nhân này mà siêu sinh tịnh độ. Nói chung các vương phi của nhà vua chư hầu, là những người hiền thục u trinh; điều hòa nội trị. Nâng thêm tiết tháo hiền hòa; tỏ rõ tấm lòng thục thuận. Đợi sao trời xuống; cùng thổi luật đồng. Sau cùng xin nguyện nhân dân giàu có, bốn bể an ninh. Thống nhất sơn hà; Hoa, Di thông suốt. Năm hành tuần tự; thóc lúa trĩu bông. Biên cương im khói lửa; trong nước bặt tai ương. Thần, thẹn xen hàng nhạn; lạm dự rừng nho. Ghi chép sự việc hoàn thành; nhờ bởi thánh minh khéo léo. Còn về công huân nghiêng trời lệch đất của bệ hạ, thì dẫu có tài như Uyên, Vân, có học như Ban, Mã cũng khó lòng ghi lại được muôn một vậy. Lại nghĩ phận rau quì, rau hoắc nhỏ nhoi; nhờ được ánh mặt trời, mặt trăng soi tới. Nghìn năm một thuở; dốc hết lòng ngu. Gượng cầm ngòi bút; đánh bạo trình bày.
Lời minh rằng:
Tâm rất diệu mà rất tĩnh,
Không dáng cũng không hình.
Gượng đặt tên cho nó,
'Cực nhỏ" và "Cực tinh"
Đạm bạc riêng tồn tại,
Trước thuở trời đất sinh.
Muốn nhuộm đen chẳng được,
Đem mài vẫn nguyên lành.
Diệu thay cái TÂM ấy,
Thuần túy và tinh anh!
Xưa bên trời Tây Trúc,
Giáng sinh có Kim tiên.
Mười danh hiệu đầy đủ,
Rộng mở lời thề nguyền.
Tu hành đủ lục độ,
Tham cứu sâu đạo thiền.
Trí tuệ đuổi hư ngụy,
Dựng giáo lý diệu huyền.
Đưa đạo về chân tính,
Như núi lặng non yên,
Khắp ba cõi chiêm ngưỡng,
Mười phương về hợp duyên.
Người vâng mệnh Đức Phật,
Tế độ, vững con thuyền.
Chán cõi tục hư ảo,
Như bọt nổi băng tan,
Ánh cầu vồng rực sáng,
Người giũ áo về ngàn.
Nét mặt vàng mờ bóng,
Tấm thân tẩm dầu lan.
Gỗ chiên đàn làm củi,
Khói bay trên hỏa đàn.
Lửa thiêu vừa lụi tắt,
Kết xá lị muôn vàn.
Đầy mâm và đầy chậu,
Hoặc năm sắc rỡ ràng.
Hoặc hiện thành chín vẻ.
Lung linh và chói chang.
Khắp thiên cung rộng lớn,
Khắp trần giới, dương gian.
Quốc vương cả bốn loại,
Cùng kéo về rộn ràng.
Tranh hùng, xưng danh tướng,
Mang năm lớp hòm vàng.
Xe rồng êm chuyển bánh,
Tháp báu đặt nghiêm trang,
Từ đó và mãi mãi,
Năm tháng tỏ đèn nhang.
Nơi nơi đều thờ phụng,
Người tu hành siêng năng.
Đến nay vua nước Việt,
Truyền giữ càng ân cần.
Hướng về núi Long Đội,
Nguyện theo chí tiền nhân.
Xây điện tháp hùng vĩ,
Vượt mây, cao mấy tầng.
Đỉnh tháp đặt xá lị,
Mong điềm sinh thánh quân.
Hào quang tỏa phép lạ,
Sông núi vẻ thanh tân.
Mây ráng cùng hòa hợp,
Cách biệt cõi hồng trần.
Đức vua ban tên hiệu,
Tháp "Sùng Thiện Diên Linh".
Cầu mong dài tuổi thọ,
Được tháng tốt ngày lành.
Cùng họp nhau khánh chúc,
Quả phúc đã viên thành.
Viếng chùa xe tấp nập,
Như mây tụ non xanh.
Quyết giữ lòng trong sạch,
Lên đài cao tranh vanh.
Rì rầm kinh tụng niệm,
Người, trời hòa vẻ thanh.
Trống chuông khua gióng giả,
Hương trầm khói tỏa quanh.
Gấm vóc khoe xuân sắc,
Phúc lành khắp chúng sinh.
Gông cùm và tù ngục,
Phá bỏ, đời thanh bình.
Thần được giao chép việc,
Tài mọn, thêm thẹn thùng.
Ba đông học chưa trọn,
Mà ơn vua vô cùng.
Xin mở tung các cửa,
Cho bốn bể hòa chung.
Ngợi ca đức năm thánh,
Dài lâu cùng núi sông.
ĐỖ VĂN HỶ dịch
(Dẫn theo sách Thơ Văn Lý Trần, tập I trang 403, 411)
Tháp "Sùng Thiện Diên Linh" đã bị giặc Minh phá hủy trong cuộc xăm lăng của chúng vào đầu thế kỷ XV (1406-1407). Riêng bia thì vì không thể phá nổi nên chúng đã lật đổ xuống bên cạnh núi. Mãi đến gần hai thế kỷ sau, vào năm Tân Sửu đời Mạc Mậu Hợp (1591), nhân dân địa phương mới bỏ công đức dựng lại và trùng tu chùa Sùng Thiện Diên Linh. Ngày nay, chùa đã đổ nát, còn bia thì vẩn nguyên ở vị trí cũ, thuộc xã Đội Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà. Bia trang sức kiểu dây leo và rồng xoắn đời Lý.
Ở phía sau của tấm bia có khắc 1 đoạn thơ của Lê Thánh Tông và 2 đoạn văn: một đoạn ghi việc thái hậu Linh Nhân (tức Ỷ Lan) cúng 72 mẫu ruộng làm tự điền, và một đoạn khác, ghi việc trùng tu và dựng lại bia dưới thời nhà Mạc (Sđd)
Về văn xuôi chúng tôi rút ra bài hịch dưới đây làm mẫu.
Năm 1109, vua Nhân Tông trước khi thân chinh động Ma Sa, có hội dân nước ăn thề ở sân rồng và truyền hịch:
"Trẫm nối nghiệp tổ tông để sửa trị muôn dân. Coi dân trăm họ trong bốn biển như con đỏ. Cho nên cõi xa mến điều nhân mà qui phục; phương ngoài mộ lòng nghĩa mà triều cống. Vả chăng, dân động Ma Sa vốn sinh sống ở trong bờ cõi nước ta; viên động trưởng Ma Sa đời đời làm phiên thần cho trẫm. Ngốc thay là viên Tù trưởng hèn, bỗng chốc phụ lời ước hẹn của cha ông nó; dám quên việc triều cống, trái với lệ thường hàng năm.
Trẫm mỗi lần nghĩ đến, thật là một việc bất đắc dĩ. Hôm nay, trẫm tự cầm quân đánh chúng nó. Hỡi các tướng súy và sáu quân, ai nấy phải hết lòng vâng theo mệnh lệnh của trẫm”.
Năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ 1 (1127), vua Lý Nhân Tông trước khi băng, đã viết bài "Lâm Chung Di Chiếu" và cho gọi thái uý Lưu Khánh Đàm vào cung trao tận tay và dặn dò các việc về sau.
Dưới đây là bản dịch từ chữ Hán ra tiếng Việt in trong sách Thơ Văn Lý Trần, tập 1, (xin trích nguyên văn):
"Trẫm nghe: các giống sinh vật không giống nào không chết. Chết là số lớn của trời đất, là lẽ đương nhiên của muôn loài. Thế mà người đời không ai không ham sống, ghét chết. (Có người) chôn cất linh đình đến hủy hoại cả cơ nghiệp; (có người) coi trọng việc tang chế đến hao tổn cả sinh mạng, trẫm rất không ưa. Trẫm đã ít đức, không làm gì cho trăm họ được yên, đến khi chết đi lại bắt dân chúng mặc xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế, để làm nặng thêm lỗi lầm của trẫm thì thiên hạ sẽ bảo trẫm là người như thế nào?
'Trẫm vẫn xót vì tuổi nhỏ phải đảm đương ngôi báu lớn, ở trên các vương hầu, lúc nào cũng nghiêm kính sợ hãi, đến nay đã năm mươi sáu năm. Nhờ anh linh của tổ tông và hoàng thiên giúp nên bốn bể yên lành, biên thùy ít loạn, đến khi chết đi được dự đứng sau tiên đế là may mắn rồi, việc gì còn phải khóc thương!
"Trẫm từ khi đi xem dân gặt hái đến nay, trong mình bỗng thấy không khỏe, bây giờ bệnh đã trầm trọng, sợ không kịp căn dặn đầy đủ, nên hãy thận trọng mà nói việc kế tự thôi! Thái tử Dương Hoántuổi đã tròn mười hai, có độ lượng, thông minh, thành thực trung hậu, ôn hòa nghiêm kính, có thể theo phép cũ của trẫm, lên ngôi haòng đế.
"Này đức trẻ thơ, con hãy vâng nhận mệnh ta, nối dõi thể thống, giữ gìn cơ nghiệp, làm rộng lớn thêm công đức của tiền nhân. Trẫm mong thần dân hết lòng phụ tá.
"Hởi ngươi Bá Ngọc(người) thực có phong độ người quân tử. Hãy sửa sang giáo mác để dự phòng những việc bất trắc, chớ làm sai mệnh trẫm. Trẫm dù nhắm mắt cũng không ân hận gì.
“Việc tang thì sau ba ngày nên bỏ áo trở, thôi khóc than. Chôn cất thì nên theo cách kiệm ước của Hán Văn Đế, không cần xây lăng tẫm riêng, hãy để trẫm được hầu bên cạnh tiên đế
“Than ơi! Mặt trời đã xế, tấc bóng khôn dừng; trăng trối mấy lời, nghìn năm vĩnh quyết!
Các ngươi nên thực lòng kính nghe lời trẫm, tỏ bày với các vương công và bá cáo cho mọi người cùng biết"
(Bản dịch của nguyễn Đức Vân - Thơ văn Lý Trần T.1)
Học giả Ngô tất Tố viết trong sách Văn Học Đời Lý: "Về phần tản văn, thì bài Di Chiếu của vua Nhân Tông là khá hơn hết. Tuy cũng có mô phỏng bài Di Chiếu của Văn Đế nhà Hán, nhưng mà câu đặt rất cổ, ông Lê Quí Đôn và ông Phạm Đình Hổ khen văn nhà Lý giống văn nhà Hán, có lẽ chỉ về bài này" (Sđd)
HT.Thích Đức Nhuận
nguồn link: phatviet.com