Vừa “ẵm” được chức Chinh Di tướng quân, Tổng binh Thông đã ra oai vỗ ngực tự cho rằng có thể đánh tan tác quân Lam Sơn giải vây cho quân Minh co cụm ở Đông Quan. Nào ngờ một cuộc hành quân bão táp với 15 vạn người, “dài đến mười dặm, mũ giáp lòa trời, cờ tàn rợp nội, tự cho là đánh một trận có thể quét sạch quân ta” (Lam Sơn thực lục) lại trở thành trận thất bại đến nỗi “nhơ để ngàn thu”. Sau mùa đông năm ấy, trận Tốt Động lẫy lừng được ghi vào sử sách, và cánh đồng Mồ chất chồng xác giặc nay vẫn còn đây.
Lượng - Hiệp bay đầu Vương Thông tháo chạy
Sử sách chép lại khi ấy quân Lam Sơn chỉ có vỏn vẹn ba ngàn người và vài ba thớt voi chiến nhưng với tài thao lược tài tình “lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh” khiến 5 vạn quân Minh phải tan tác, 2,3 vạn tên thiệt mạng, một vạn quân bị bắt sống. Trận chiến chỉ diễn ra từ giờ Ngọ đến giờ Thân mà quân Minh bị đánh không còn một mảnh giáp, Thượng thư Trần Hiệp, nội quan Lý Lượng bị chặt đầu, Vương Thông cũng bị thương, phải bỏ chạy thục mạng về Đông Quan, đóng cửa viết thư cầu viện binh.
Xác quân giặc chết chồng chất lên nhau khiến cả một vùng cách xa vạn dặm vẫn còn hôi tanh mùi xú uế. Trong “Bình Ngô đại cáo” Nguyễn Trãi đã tóm lược bằng hai câu: “Ninh Kiều máu chảy thành sông tanh trôi vạn dặm/ Tốt Động thây chất đầy nội nhơ để ngàn năm…”. Để tỏ lòng nhân nghĩa, vài năm sau độc lập vua Lê Thái Tổ đã xuống chiếu cho làng Tốt Động thu gom hài cốt quân Minh lập chôn thành hàng trăm ngôi đại mộ. Đến năm Bính Dần, 1866 vua Tự Đức lại có chiếu cho làng Tốt Động quy dồn tất cả thành một đại mộ quây bằng đá ong đặt tên là đồng Mồ và nó tồn tại như một địa danh lịch sử cho đến ngày nay.
Để làm “việc nghĩa chủng” chiếu vua lệnh phải gom nhặt hài cốt rồi theo đó cúng tế đàng hoàng. Năm 1866, theo lệnh vua, viên cử nhân ở Bộ Lại là Đặng Tĩnh Trai đã thừa soạn tấm bia “di ngôn” đặt giữa đồng Mồ. Trên tấm bia có đoạn ghi: “Ta rằng hỡi ôi! Số người thác ở đây trăm đời sau vẫn là ma khách. Nay các ngươi đều được về đây, thi thể các ngươi thoát khỏi cảnh ngâm thây đáy nước, dãi nắng bãi cỏ hoang, ăn gió uống sương hồn phách chập chờn như đom đóm...”.
Cái lễ đặc biệt thể hiện lòng nhân nghĩa của dân tộc ta với những vong hồn bại trận được diễn ra đều đặn hằng năm vào ngày 24 tháng Chạp. Những con “ma khách” được cúng rượu thịt, cháo cơm để phần nào khỏi đói khát, cô đơn ở xứ người mà chúng bỏ thân vì xâm lược. “Ô hô cẩn cốc” lời thầy cúng vừa dứt cũng là lúc trẻ con lao vào cướp cháo và từ đó người ta gọi là tục Cướp cháo cầu trước bia đá “di ngôn”.
Lịch sử lùi xa nhưng những bài học thì còn mới lắm. “Đem đại nghĩa thắng hung tàn/ Lấy trí nhân thay cường bạo” tư tưởng ấy ngàn đời nay dân tộc ta vẫn dùng làm cốt lõi mà rõ nhất là lịch sử ở cánh đồng Mồ.
Đống Đa, Chi Lăng, Bạch Đằng, Tốt Động mồ chôn xác giặc còn cao vời vợi chẳng lẽ có kẻ nào đó đã sớm quên. Hậu quả của giặc xâm lăng là những cánh đồng phơi xương trắng, những dòng sông đỏ máu hôi tanh. Hỏi, ngàn năm nay sao chưa thấm mà vẫn còn muốn nhòm ngó, nhăm nhe? Lịch sử vẫn luôn công bằng, chiến thắng không dành cho những kẻ xâm lăng.