Đầu
tháng 8/2012, Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh đã phát hiện và sưu tầm được hai
cổ vật độc đáo ở chùa Thiền Chúng (Thuyền Chúng), huyện Long Biên, xứ
Giao Châu xưa, trong đó có một tấm bia đá có từ năm 601, được đánh giá
là cổ nhất Việt Nam. Những văn tự ghi trên bia thuộc loại “khó hiểu” nên
nội dung của văn bia là điều bí ẩn.
Tuy
nhiên, tại một công trình nghiên cứu trình bày tại Hội nghị thông báo
khảo cổ học toàn quốc mới đây, Thạc sĩ Phạm Lê Huy, Giảng viên Khoa Đông
Phương học, Đại học XH&NV (thuộc ĐHQGHN) cho biết đã giải mã được
những bí ẩn ghi trên văn bia.
Theo
Thạc sĩ Phạm Lê Huy, nội dung ghi trong văn bia gồm có tổng cộng 133
chữ, được chia làm 13 dòng. Sau khi giải mã chữ viết, có thể thấy nội
dung văn bia trên như sau:
“1. Xá lợi tháp minh văn
2. Duy Đại Tùy Nhân Thọ nguyên niên tuế thứ Tân Dậu thập nguyệt
3. Tân Hợi sóc thập ngũ nhật Ất Sửu
4. Hoàng đế phổ vi nhất thiết pháp giới u hiển sinh linh cẩn
5. ư Giao Châu Long Biên huyện Thiền Chúng tự phụng an xá lợi
6. kính tạo linh pháp nguyện
7. Thái Tổ Vũ Nguyên Hoàng đế, Nguyên Minh Hoàng Hậu, Hoàng đế, Hoàng
8. hậu, Hoàng thái tử, chư vương tử tôn đẳng, tịnh nội ngoại thần
9. quan, viên cập dân thứ, lục đạo, tam đồ nhân, phi nhân đẳng
10. Sinh linh thế thế trị phật văn pháp, vĩnh ly khổ không, đồng
11. thăng diệu quả
12. Sắc tứ Đại đức Tuệ Nhã pháp sư, Lại bộ Vũ kỵ úy
13. Khương Huy tống xá lợi ư thử khởi pháp”.
Qua
so sánh, có thể nhận thấy văn bia trên có nội dung về cơ bản giống với
“Nhân Thọ xá lợi tháp” có niên đại 601 đã được phát hiện tại Trung Quốc.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, văn bia cổ ở Bắc Ninh vẫn có một số điểm khác biệt so với văn bia phát hiện ở Trung Quốc.
Trong
văn bia cổ ở Bắc Ninh, dòng đầu tiên ghi chữ “Xá lợi tháp minh”, trong
khi đó, một số minh văn phát hiện ở Trung Quốc lại ghi là “Xá lợi tháp
hạ minh” hoặc không ghi tiêu đề. Vị trí khắc dòng tiêu đề cũng khác nhau
ở từng bia, có cái ghi dòng đầu, có cái ghi dòng cuối.
Ngoài
ra, trong khi các minh văn khác chỉ có phần chính văn thì ở văn bia cổ ở
Bắc Ninh lại có ghi thêm phần chú thích “sắc sứ” là “Đại đức Tuệ Nhã
pháp sư” và “Vũ kỵ úy Khương Huy”.
Minh
văn Thanh Châu (Trung Quốc), ngoài 2 “sắc sứ” là “Đại đức Trí Năng” và “
Vũ kỵ úy Lý Đức Kham còn ghi thêm tên 2 người tùy tùng (tòng giả) và 2
viên chức Tư mã và Lục sự tham quân của Thanh châu. Đối chiếu với chiếu
thư của Tùy Văn Đế, có thể xác định: “Đại đức Tuệ Nhã pháp sư” và “Đại
đức Trí Năng” là 2 trong số 30 sa môn được Tùy Văn Đế cử về địa phương,
còn Khương Huy và Lý Đức Kham là 2 “tản quan” tháp tùng.
Bên
cạnh đó, việc nắp bia và bia được kết dính bằng một chất đặc biệt cũng
được phát hiện tại Trung Quốc. Sự thống nhất trong nội dung minh văn với
các tấm bia tìm được tại Trung Quốc cũng như sự trùng khớp thông tin
(ngày 15 tháng 10 năm 601, xây tháp tại chùa Thiền Chúng ở Giao Châu)
với các tư liệu khác như “Quảng hoằng minh tập” và “Cảm ứng lục” có thể
khẳng định: Tấm bia vừa được tìm thấy tại Bắc Ninh chính là minh văn
“Nhân Thọ xá lợi tháp” được khắc cùng với sự kiện xây dựng tháp xá lợi
tại chùa Thiền Chúng ở Giao Châu năm 601.
Đánh
giá về giá trị và ý nghĩa lịch sử của tấm văn bia cổ vừa được phát hiện
và giải mã ở Bắc Ninh, Thạc sĩ Phạm Lê Huy khẳng định: Đây là nguồn tư
liệu kim thạch quý giá, bên cạnh bia Trường Xuân và tấm bia phát hiện ở
khu vực Vạn Xoan trước đây, đã giúp các nhà nghiên cứu rõ hơn về tình
hình chính trị, quan hệ ngoại giao, lịch sử Phật giáo tại Việt Nam giai
đoạn thời Tiền Lý. Liên quan đến lịch sử Phật giáo, nó còn giúp chúng ta
nhận thức hoàn chỉnh hơn về hoạt động xây dựng tháp xá lợi và các tín
ngưỡng xung quanh trong thời Tùy – Đường.
Không
chỉ có ý nghĩa đối với Việt Nam, tấm bia cổ Bắc Ninh cũng là nguồn tư
liệu quý giá giúp nâng cao hiểu biết của giới học giả Trung Quốc và Nhật
Bản về hoạt động xây dựng “Nhân Thọ xá lợi tháp” nói riêng cũng như
chính sách Phật giáo của nhà Tùy nói chung.
Lưu Thủy/TT&VH Online