Phật giáo nói rằng cuộc sống ở thế gian là thế lưu bố tưởng. Thế lưu bố tưởng 世流布想 là tưởng tượng bình thường được lưu truyền rộng rãi qua nhiều đời của thế nhân. Trong kinh “Đại bát Niết bàn” 大般涅槃经 do ngài Đàm Vô Sấm 昙无谶 (Dharmaraksa) pháp sư người Ấn dịch, Phật nói với Ca Diếp :
一切凡夫有二种想。一者世流布想。二者着想。一切圣人唯有世流布想无有着想。一切凡夫恶觉观故。于世流布生于着想。一切圣人善觉观故。于世流布不生着想。是故凡夫名为倒想。圣人虽知不名倒想。
Tất cả phàm
phu có hai loại tưởng tượng, thứ nhứt là thế lưu bố tưởng, thứ hai là
trước tưởng. Tất cả bậc thánh nhân chỉ có thế lưu bố tưởng mà không có
trước tưởng. Tất cả phàm phu vì dựa vào cảm giác sai lầm của giác quan ,
từ thế lưu bố tưởng sinh ra trước tưởng. Tất cả bậc thánh vì có chánh
giác thấu suốt, từ thế lưu bố tưởng không sinh ra trước tưởng. Vì vậy
mới gọi cái thấy của phàm phu là điên đảo tưởng. Thánh nhân tuy cũng có
tri giác (giống phàm phu) nhưng không gọi là điên đảo tưởng
Ý
chỉ trong kinh hàm súc nhưng quá ngắn gọn nên hơi khó hiểu, các bậc
thiện tri thức ở Trung Hoa đã diễn giải thêm cho rõ nghĩa :
世流布想; 就是见牛作牛想说是牛,见马说马等等 ;执著想,就是见到什么都执著为实有。凡夫由于无明情见,才如此颠倒;而圣人智慧明了,于一切境界毫不迷惑。 古德咏花诗说:何须待零落,方知本来空。一切名利地位男女感情本来就不实在,又何必水中捞月,徒自辛苦呢?不如随缘施为,唤醒自他一切众生为上呀。
(
Thế lưu bố tưởng là thấy trâu nói là trâu, thấy ngựa nói là ngựa. Chấp
trước tưởng, tức là thấy cái gì đều chấp (giữ chặt) cái đó cho là có
thật. Phàm phu do vô minh, cái thấy bị tình cảm sai khiến nên điên đảo,
còn thánh nhân trí tuệ sáng suốt, đối với mọi cảnh giới đều không mê
chấp cho là có thật. Thơ vịnh hoa của bậc Cổ Đức nói:
何须待零落 Hà tu đãi linh lạc Chẳng cần chờ hoa rụng
方知本来空 Phương tri bổn lai không Mới biết xưa nay không
Tất
cả danh lợi, địa vị, nam nữ, tình cảm, xưa nay vốn là không có thực, hà
tất phải mò trăng đáy nước, tự làm khổ mình, không bằng tùy duyên mà
làm, khiến cho tất cả chúng sinh tự giác ngộ không phải hơn sao ? )
Tại
sao đối với thế giới vật chất như sơn hà đại địa, sinh vật, con người
v.v… Phật nói đó là tưởng tượng thông thường của thế gian, không phải
thật ? Ngày xưa đây là điều vô cùng khó hiểu, không ai tin nổi, nhưng
ngày nay, điều đó đã được khoa học chứng minh một cách rõ ràng với việc
phát minh ra máy vi tính và các phát kiến khoa học mới. Tất cả mọi hiện
tượng trên màn hình vi tính như hình ảnh, chữ viết, âm thanh, màu sắc,
video đều chỉ là ảo, bản chất của mọi hiện tượng đó chỉ là điện tử được
qui về hai trạng thái : có dòng điện ký hiệu là 1, không có dòng điện,
ký hiệu là 0. Từ 0 và 1 người ta có thể biểu diễn rất nhiều hình thái
hoạt động của con người như thơ văn, sách vở, tư tưởng, phim ảnh, ca
nhạc, thông tin liên lạc nhất là viễn thông, vô cùng tiện lợi. Không ai
còn nghi ngờ về thế giới ảo, thế giới của điều khiển học (Cybernetics),
của kỹ thuật số (Digital).
Thế
giới ngoài đời cũng tương tự như vậy, chỉ phức tạp hơn mà thôi. Phần
nhỏ nhất của vật chất, ngày nay người ta biết rằng chỉ có vài loại hạt
cấu tạo nên toàn bộ vật chất trên địa cầu, cơ bản nhất là hạt quark, hai
loại thường thấy nhất là quark up và quark down, chúng tạo nên hạt
proton và hạt neutron, những hạt này là thành phần của hạt nhân nguyên
tử. Quay chung quanh nhân là các hạt điện tử (electron) chuyển động với
tốc độ rất nhanh từ vài ngàn đến vài chục ngàn km/s. Chính vì các điện
tử chuyển động nhanh như vậy trong không gian rất nhỏ của nguyên tử nên
chúng ta có cảm giác nguyên tử là có thật, vật chất là có thật, cứng
chắc, chứ thật ra nguyên tử là trống rỗng, chẳng có gì cả.
Ngoài ra thế
giới vật chất còn bao hàm một vài loại hạt cơ bản khác như một số hạt
đồng loại với quark, electron và vài loại khác như quang tử (photon),
neutrino. Tất cả vật chất cũng như các loại hạt cơ bản của vật chất được
qui về năng lượng, phần nhỏ nhất của năng lượng gọi là lượng tử. Các lý
thuyết vật lý hiện đại đều được xây dựng trên lượng tử, ví dụ Cơ học
lượng tử (Quantum Mechanics), Sắc động lực học lượng tử (Quantum
ChromoDynamics viết tắt QCD)… Bài thuyết pháp về Ngũ uẩn (五蘊 sa. pañca-skandha) và Thập nhị nhân duyên (十二因縁, sa. dvādaśanidāna)
của Đức Phật chỉ rõ sự hình thành thân xác và cảm giác của loài hữu
tình mà đại biểu là con người, cũng như của thế giới vật chất nói chung.
Cơ chế ảo hóa chính là lục căn, lục trần, lục thức gọi chung là 18
giới.
Phàm
phu ngày nay cũng biết rõ các hiện tượng trên màn hình vi tính là ảo,
nhưng không biết, không tin nổi các sự vật, hiện tượng ngoài đời cũng là
ảo, do đó sinh ra mê chấp cho là thật và phải chịu luân hồi sanh tử
trong cảnh khổ. Bậc thánh thì tự thân chứng được các hiện tượng ngoài
đời cũng là ảo nên không chấp trước, không có trước tưởng, còn việc nhận
thức các sự vật như núi non, sông hồ, nhà cửa, sinh vật, nam nữ… gọi
chung là thế lưu bố tưởng thì cũng chẳng khác phàm phu, nhưng vì biết rõ
là ảo nên không sinh lòng tham ái.
Theo
PG, chỗ tận cùng bản chất con người là Phật tánh. Phật là người giác
ngộ, Phật tánh là tánh giác ngộ hay giác tánh. Giác tánh là tánh biết
bất nhị, bất nhị là không phải hai cũng không phải là một. Bất nhị là
không có người biết (năng tri) cũng không có cái được biết (sở tri). Để
hiểu rõ về tánh bất nhị, xin hãy xem lại hiện tượng rối lượng tử
(quantum entanglement). Thiên nhiên có thể tạo ra đồng thời hai hay
nhiều hạt photon, chúng có thể ở tại những vị trí cách xa nhau, khi một
hạt bị tác động, tức thời các hạt khác cũng bị tác động y hệt, không mất
chút thời gian nào, bất kể khoảng cách là bao xa. Hiện tượng này bộc lộ
nhiều tính chất mà chúng ta khó tưởng tượng nổi :
Tính
bất nhị, nghĩa là không có số lượng, hay số lượng chỉ là tưởng tượng
chứ không có thật. Ta nói chỉ có một photon hay có nhiều photon đều
không đúng. Thật tế là không thể xác định được. Vì vậy trong Kinh nói
“Phàm cái gì có thể nói ra (hay xác định) đều không có nghĩa thật”. Cũng
vì vậy, Đức Phật sau 49 năm đi thuyết pháp, giảng không biết bao nhiêu
bộ kinh, trước khi nhập diệt, đã tuyên bố : “ Ta chưa hề nói một chữ
nào”.
Tính
không thật của không gian. Khoảng cách không gian là không có thật, chỉ
có trong tâm thức mà thôi. Chính vì vậy, hạt photon đã không mất chút
thời gian nào để truyền tín hiệu sang hạt khác, hay không hề có việc
truyền tín hiệu đi, nếu có thì thật là phi lý, vì chẳng lẽ tín hiệu
truyền đi với tốc độ gấp hàng triệu lần tốc độ ánh sáng ?
Tính
không thật của thời gian. Thời gian cũng chỉ là sản phẩm của tâm thức
chứ không có thật. Bởi vì thời gian là một chiều kích gắn liền với không
gian, nên không gian không thật thì thời gian cũng không thật. Thuyết
tương đối của Einstein cũng nói rằng thời gian có thể co dãn. Câu chuyện
nghịch lý về hai anh em song sinh của Langevin minh thị ý nghĩa thời
gian có thể co dãn, thời gian khác nhau ở hai hệ qui chiếu khác nhau.
Thiền sử Trung Hoa có kể 2 câu chuyện thực nghiệm về thời gian không
thật. Nhà sư Huệ Trì 慧持 là em ruột của Tổ Tịnh Độ tông Huệ Viễn (慧遠
334~416 ) sống vào đời Tấn ở Trung Quốc.
Khi
Huệ Viễn tổ chức một thời pháp Niệm Phật ở Lư Sơn thuộc tỉnh Giang Tây
thì Huệ Trì từ giã anh, đi vân du ở Tứ Xuyên, thấy có một bọng cây lớn,
ông vào ngồi nhập định, hoàn toàn không biết về tất cả mọi việc xảy ra.
Cửa bọng cây lâu ngày khép lại, ông cũng không hay. Đến khi cây bị sét
đánh, bọng cây bị vỡ, ông té ra ngoài, cũng không hay biết. Trẻ mục đồng
nhìn thấy ông, chúng gọi người đến, ông vẫn còn nhập định. Người ta đưa
ông đến kinh đô, tại đây có các thiền sư, họ làm cho ông xuất định.
Ông
nói rõ tên họ và xác định mình là em ruột của Huệ Viễn, một người nổi
tiếng, và hỏi thăm ông anh ra sao. Mọi người vô cùng kinh ngạc vì Huệ
Viễn đã tịch hơn 700 năm rồi. Họ hỏi ông nhập định bao lâu. Ông nói mới
có một lát thôi mà. Như vậy đối với Huệ Trì thời gian hơn 700 năm là
không có.
Câu chuyện thứ hai là về Hư Vân 虚云lão hòa thượng (1840-1959) của thời hiện đại.
Ông cùng các vị đồng tu ở trên núi Chung Nam 终南山,
gần Trường An, quanh năm phủ tuyết, mỗi người ở một cái cốc cách xa
nhau, thức ăn chỉ đào những củ khoai rất cứng trên núi, người thường ăn
không nổi. Một hôm, ông bỏ củ khoai vào nồi nấu rồi ngồi nhập định lúc
nào chẳng hay. Lúc đó vào dịp Tết, những người bạn đồng tu ở xung quanh
thấy lâu không gặp, bèn rủ nhau đến thăm, thấy ông đang nhập định, liền
búng lỗ tai khiến ông xuất định và hỏi ông nhập định bao lâu rồi. Ông
đáp: “Mới hồi nảy, chắc nồi khoai đã chín rồi”. Nhưng khi mở nắp nồi
thấy mốc đã lên cao, chứng tỏ nửa tháng đã trôi qua. Như vậy đối với Hư
Vân thời gian nửa tháng là không có.
Hai
câu chuyện trên chứng tỏ thời gian là sản phẩm của tâm thức chứ không
phải thật. Các thiền sư nhập định sâu tận tiềm thức, tâm thức ngừng hoạt
động thì thời gian cũng ngừng. Nếu Câu chuyện nghịch lý của Langevin
chỉ là tưởng tượng dựa trên cơ sở khoa học, thì hai câu chuyện trên là
thực nghiệm người thật việc thật. Hư Vân sống cùng thời đại với chúng ta
và thọ tới 120 tuổi.
Hòa
thượng Thích Duy Lực đã từng nói về Huệ Trì và bản chất của thời gian
cũng như các hiện tượng lạ thường mà một số người có công năng đặc dị đã
thể hiện (nghe tiếng nói) :
795 Tình trạng nhập định của ngài Huệ Trì ở Tứ Xuyên
356 Những hiện tượng tâm linh gần đây ở Trung Quốc nên hiểu thế nào ?
Giác
tánh vô hình, vô tướng, không hạn lượng, mới đích thực là bản chất của
con người cũng như của vạn vật. Giác tánh có những tính chất như thấy,
nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc và suy tưởng. Những tính chất này bất biến, vô
sinh, vô diệt, và do đó vô thủy, vô chung. Chính giác tánh hướng dẫn
cho vật chất cấu thành lục căn tức 6 cơ quan nhận thức của sinh vật và
con người, là : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và bộ não. Lục căn tiếp
xúc với lục trần, là : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; sinh ra lục
thức là 6 loại nhận thức nói trên, trong đó tư duy là một loại nhận
thức cao cấp rất phát triển ở con người.
Theo
PG, thì thế giới vạn vật chỉ là ảo giác chứ không có thật. Thuyết thập
nhị nhân duyên của PG, nói vạn vật có nguồn gốc là vô minh. Vô minh là
lầm lạc vì không thấy rõ, không hiểu rõ, bị mê mờ. Mà vật lý lượng tử
ngày nay cũng không nói khác. Quark, electron chỉ là những hạt ảo, chúng
không tồn tại khi bị cô lập, chúng chỉ tồn tại trong quan hệ tương tác
với nhau và phải được cảm nhận bằng ý thức, trực tiếp qua các giác quan
hoặc gián tiếp qua các thiết bị.
Niels
Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel vật lý 1922)
nói “Isolated material particles are abstractions” (1) (Hạt vật chất cơ
bản cô lập là những sự vật trừu tượng- tức không phải vật thật).
Von
Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp
cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu : “Nothing would be
real unless consciousness exists, that all real things are constituents
of consciousness – which is a complete reversal of materialism” (2)
(Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều
cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy
vật).
Eugene
Wigner (1902-1995 nhà vật lý và toán học người Hungary, giải Nobel vật
lý năm 1963) viết : “The very study of the external world led to the
conclusion that the content of the consciousness is an ultimate reality.
Particles only exist when observed, and so the reality of particles
entails that consciousness is a fundamental element of reality” (3)
(Càng nghiên cứu thế giới bên ngoài, càng dẫn tới kết luận rằng nội dung
của ý thức là thực tại tối hậu. Hạt chỉ hiện hữu khi được quan sát, và
như thế thực tại của hạt bắt buộc rằng ý thức là yếu tố cơ bản của thực
tại).
Vì
tính chất đồng bộ của lục căn, lục trần, lục thức (18 cảnh giới) nên ta
tưởng vật chất là có thật, chứ thật ra vật chất chỉ là cảm giác, là
thông tin chứ không phải thật.
Khoa
học chỉ dựa trên tư duy lô gích của bộ não thuộc bán cầu trái, hay dù
cảm nhận trực giác bằng bán cầu phải thì nhận thức cũng đã bị cơ chế ảo
hóa của 18 cảnh giới làm cho lầm lạc, không bao giờ thấy được bản chất.
Ví dụ ta thấy và cảm nhận vật chất, màu sắc, nước…, đó chỉ là tâm thức
tổng hợp từ 6 giác quan, nhà khoa học ắt hẳn biết rõ là chúng không có
thật, bản chất của chúng là gì thì cũng không xác định được, quark,
electron cũng không hẳn là có thật.
Tóm
lại quark, electron tạo ra những cấu trúc ảo, đó là nguyên tử của các
nguyên tố, là phân tử vô cơ và hữu cơ, là chất sống như acid amin,
protein, glucid, lipid, protid, DNA…là sơn hà đại địa, nhà cửa, xe cộ,
mặt trời, hành tinh, thiên hà, vũ trụ. Một loại cấu trúc ảo khác là lục
căn trong đó xuất sắc nhất là bộ não người. Lục căn là cấu trúc tuyệt
vời của giác tánh, nó là cơ chế phát sinh ra nhất niệm vô minh, nhất
niệm vô minh nối tiếp nhau liên tục tạo thành dòng nhận thức, suy nghĩ,
tư tưởng, hệ tư tưởng, văn hóa, văn minh của nhân loại.
Đối tượng của
nhất niệm vô minh cũng là những cấu trúc ảo khác của vật chất và cả phi
vật chất. Những cấu trúc ảo của vật chất này, nhà triết học Immanuel
Kant (1724-1804) gọi là vật tự thể (Das Ding an Sich) bất khả tri. Cái
khả tri qua nhận thức của lục căn thì đã bị ảo hóa không còn đúng thực
tế nữa. PG gọi cấu trúc ảo của vật chất và phi vật chất là vô thủy vô
minh. Thiền gọi vô thủy vô minh là thoại đầu. Vô thủy vô minh và nhất
niệm vô minh là hai chìa khóa của cơ chế ảo hóa làm phát sinh vũ trụ vạn
vật. Bản chất của vạn vật hay bản chất của con người là giác tánh. PG
còn gọi nó là tánh Không của vạn hữu, hay còn gọi là Tâm.
Kinh Phật nói
“Nhất thiết duy tâm sở tạo” (Tất cả đều do tâm tạo) là nghĩa như vậy.
Tham thiền hay tham thoại đầu là tự mình chứng được, ngộ được vô thủy vô
minh và nhất niệm vô minh đích thực là bản chất của vũ trụ vạn vật,
chúng không là gì cả mà cũng là tất cả. Khi làm chủ được rồi thì tự
nhiên vận dụng được thần thông, sinh tử tự do, hay làm chủ được sinh tử,
thoát khỏi luân hồi sinh tử, tùy ý sinh hay tử ở bất cứ đâu, bất cứ
cảnh giới nào, dù cách xa địa cầu bao nhiêu tỉ quang niên cũng không
thành vấn đề, vì tất cả mọi cảnh giới đều là duy tâm sở tạo.
Lịch sử
Thiền tông Trung Hoa ghi nhận có hơn 5000 người chứng được như vậy,
Thiền gọi là kiến tánh. Nổi bật trong số đó là các vị Tổ Sư Thiền. Bên
Ấn Độ sau Đức Phật, có 28 vị Tổ Sư, Sơ Tổ Ca Diếp, Nhị Tổ A Nan…Tổ 14 là
Long Thọ Bồ Tát, Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma bắt đầu sang Trung Quốc
truyền Đạo Thiền, làm Sơ Tổ tại TQ. Truyền cho nhị Tổ Huệ Khả, tam Tổ
Tăng Xán, tứ Tổ Đạo Tín, ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, lục Tổ Huệ Năng. Sau Huệ
Năng, số người kiến tánh nhiều không kể xiết như Vĩnh Gia Huyền Giác,
Huỳnh Bá Hy Vận, Lâm Tế Nghĩa Huyền, Đức Sơn Tuyên Giám, Nam Nhạc Hoài
Nhượng, Pháp Nhãn Văn Ích…Thời hiện đại thì có Hư Vân Hòa thượng, Lai
Quả Thiền sư, Nguyệt Khê Thiền sư…Đời Minh có Hám Sơn, Đơn Điền (hai vị
này còn để lại nhục thân bất hoại, cùng với nhục thân của Huệ Năng, được
thờ tại chùa Nam Hoa gần thị trấn Thiều Quan, cách Quảng Châu khoảng
200km về phía bắc). Hàng cư sĩ tại gia cũng có người kiến tánh, bên Ấn
Độ có cư sĩ Duy Ma Cật, bên Trung Quốc có cả gia đình Bàng Uẩn gồm 4
người, nhà thơ Hoàng Đình Kiên…Người nữ cũng có kiến tánh, như vợ và con
gái của Bàng Uẩn, bà già bán thức ăn điểm tâm, người đã giúp cho Đức
Sơn Tuyên Giám kiến tánh…
Kết luận
: Tâm như hư không vô sở hữu (theo cách nói của Long Thọ Bồ Tát) hay
Phật tánh, hay Giác tánh, hay Thượng Đế (vô ngã), hay là Trời (nói theo
Nho giáo), mới chính là bản chất đích thực của con người và cũng là của
vạn vật, Thiền còn gọi nó là bổn lai diện mục, vốn vô sinh vô diệt, sẵn
có trước khi cha mẹ chưa sinh ra ta.
“Tôi
tư duy, vậy tôi tồn tại” (Descartes) hay “Tôi cảm thụ, vậy tôi tồn tại”
(Louis Lavelle) chỉ là sự tồn tại của cái ta giả do vô minh kiến lập.
“Tôi tư duy, vậy tôi không tồn tại” (Jean Paul Sartre) là không thừa
nhận cái ta giả, cái ta giả chỉ là vọng tưởng do vô minh kiến lập, không
phải thật. Nhưng Sartre không thân chứng được cái ta thật, tức bản chất
đích thực của con người là gì, nên không thể tự giải thoát được. Trong
L’Être et le Néant (Thực thể và Hư vô, 1943) tác phẩm triết học chính
của ông, có nhiều sai lầm.
Một trong các sai lầm căn bản của ông là cho
rằng L’être est. L’être est en soi. L’être est ce qu’il est. (Thực-thể
là. Thực-thể tự-tại. Thực-thể là cái gì nó là.) Nói thế tức là cho rằng
vật chất tự nó tồn tại độc lập ngoài tâm thức, điều mà các nhà khoa học
hàng đầu thế giới hiện nay đã chỉ ra là không đúng. Phật pháp nói thực
thể (vật chất hay con người chẳng hạn) cũng không phải là thực thể. Hư
vô cũng không phải là hư vô. Cái gì có thể nghĩ, có thể nói đều không
có nghĩa thật. Cả chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa hư vô đều là biên
kiến (lệch một bên) không phải trung đạo, và đều là bệnh.
Truyền Bình