Năm 1991 đền Mẫu Âu Cơ chính thức được Bộ VHTT cấp bằng di tích lịch sử văn hóa Quốc gia. Thời điểm đó được coi là mốc lịch sử quan trọng để nhân dân trong tỉnh và khách thập phương có dịp nhìn nhận một cách đầy đủ hơn tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của ngôi đền thờ Quốc Mẫu
Thờ mẫu (mẹ) là một trong những tập quán sinh hoạt của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tập quán này đã trở thành mỹ tục thấm đậm nét văn hóa đặc trưng của người Việt. Lễ hội đền Quốc mẫu Âu Cơ thuộc xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa là khởi thủy của mỹ tục này. Xuất xứ của tục thờ Mẫu từ truyền thuyết trăm trứng, trăm con mà mẹ Âu Cơ - người mẹ của bách Việt đã mang nặng đẻ đau.
Chuyện kể rằng thuở ấy vợ chồng Đế Lai ở Động Lăng Xương (xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy ngày nay) đã sinh được con gái yêu tên gọi là Âu Cơ. Khi Âu Cơ cất tiếng khóc chào đời thì hương thơm toả ngát, trên trời có mây lành che chở, điềm báo “Tiên nữ giáng trần”. Âu Cơ lớn lên ngày càng xinh đẹp, lại chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật. Âu Cơ đã được Lạc Long Quân kén làm vợ và đưa về núi Nghĩa Lĩnh. Tại đây Âu Cơ đã sinh ra bọc trăm trứng nở ra một trăm người con trai. Khi các con lớn khôn, Lạc long nói với Âu Cơ: Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên duyên phận đến đây đã hết. Thế rồi hai người bàn định chia đôi số con để người thì lên rừng, người thì xuống biển nhằm gây dựng mở mang non sông bờ cõi. Lạc Long Quân đưa 50 người con về biển làm nghề chài lưới. Âu Cơ đưa 49 người con lên núi khai phá rừng hoang, để lại người con trưởng làm vua, 18 chi đời đều gọi Hùng Vương. Mẹ Âu Cơ cùng 49 người con lên miền ngược thấy đất Hiền Lương phong cảnh tươi đẹp, sơn thủy hữu tình nên đã chọn làm nơi dừng chân trong hành trình khai sơn phá thạch. Tại Hiền Lương mẹ Âu Cơ đã dạy dân khai hoang lập ấp, cấy lúa, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải. Khi mất, mẹ Âu Cơ hóa Tiên bay về trời cùng bầy tiên nữ. Để tưởng nhớ công lao về người mẹ vĩ đại ấy, nhân dân ta lập đền thờ bà và suy tôn là “Thánh quốc mẫu” thờ phụng, hương khói muôn đời. Về việc lập đền thờ Mẫu Âu Cơ ở Hiền Lương, Thần tích của đền chép rằng: Dưới triều vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức (1465) Vua Lê đã sai Giám Quốc Sư đến Hiền Lương phong Thần, cấp tiền xây dựng đền thờ Mẫu Âu Cơ. Ngôi Đền thờ Tổ Mẫu có từ đó. Đền trông hướng chính Nam, bên trái có giếng Loan, bên phải có giếng Phượng, phía trước đền có ao sen, sông Hồng như dải lụa đào bao quanh. Ngôi đền nằm dưới tán cây đa cổ thụ, trên một vùng bình địa rộng lớn, sát cạnh Quốc lộ 32C, nối các tỉnh phía Tây Bắc với thủ đô Hà Nội và cả nước nên càng tăng thêm tính tôn nghiêm và sự thu hút với khách thập phương.
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, giặc giã và thiên tai, ngôi đền cổ xưa không còn song qua những lần bảo tồn tôn tạo nó vẫn giữ được lối kiến trúc thuở ban đầu. Đền làm kiểu chữ nhất 5 gian kiến trúc đơn sơ mà vững chãi, dựng trên một khoảng đất cao, giữa cánh đồng rộng, sau đền có cây đa cổ thụ, cành lá xum xuê trùm gần kín đền, tạo nên nét thâm nghiêm phù hợp với tư duy tín ngưỡng cổ truyền. Điện thờ có hai khối, bên ngoài thờ Vua Hùng- Cao Minh và tướng lĩnh, với các cỗ ngai bài vị chạm lưỡng long chầu nguyệt, hoặc chạm các bắc mai điểu với kỹ thuật đục bong, thủng rất công phu, rồi sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Bên trong, trên cao có thang gác gỗ đi lên là cỗ khám thờ mẫu Âu Cơ. Khám cao 1m82, dài 1m63 rộng 1m25. Riềm khám thờ được chạm văn hoa tứ quý (Tùng, Cúc, Trúc, Mai. Trong khám đặt cỗ ngai làm nơi ngự của tượng bà Âu Cơ - tượng cao ước gần một mét, ở tư thế ngồi. Mẫu Âu Cơ mặc áo đỏ, yếm trắng đầu đội mũ, một tay cầm viên ngọc, tay kia đặt trên đầu gối, chân đi hài cong (vân sảo), đầu đội mũ lấp lánh (kim cương), nước da hồng, mặt đôn hậu (Tượng Mẫu Âu Cơ có niên đại khoảng 540 năm). Toàn bộ tượng toát lên một vẻ đẹp thanh cao, đôn hậu của phụ nữ Việt Nam. Ngoài tượng Mẫu là cổ vật linh thiêng, ngôi đền còn lưu giữ được những bức trạm gỗ quý giá, tượng Đức Ông, Long Ngai, Khám thờ mà các nhà khoa học nhận định đó là những tiêu bản của nền nghệ thuật đương thời. Trên phật diện vẫn bộ “ Tam thế Thường Trụ Diệu Pháp Thân” tượng trưng cho 3000 phật của mọi thời, cho lòng nhân ái vị tha, cho pháp lục và trí tuệ vô lượng vô biên để diệt trừ mọi sự u tối mầm mống của tội ác. Tiếp dưới là A di đà phật, Thích Ca, các vị Bồ Tát, Đức Ông... Mỗi vị một chức năng nằm cứu độ cho đời. Kiến trúc đền mẫu Âu Cơ trên khu đất tụ linh, tụ phúc mang đến cảm giác cho con cháu thập phương về hành lễ tri ân công đức Mẫu sự ấm áp chở che.
Năm 1991 đền Mẫu Âu Cơ chính thức được Bộ VHTT cấp bằng di tích lịch sử văn hóa Quốc gia. Thời điểm đó được coi là mốc lịch sử quan trọng để nhân dân trong tỉnh và khách thập phương có dịp nhìn nhận một cách đầy đủ hơn tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của ngôi đền thờ Quốc Mẫu. Liên tục trong mấy năm gần đây đền Mẫu Âu Cơ đã được các cấp chính quyền và đồng bào thập phương công đức dành sự đầu tư chỉnh trang và đến nay đã được nhà nước quy hoạch xây dựng, thành lập Ban quản lý trông coi đền cũng như hướng dẫn việc hành lễ tổ chức các dịch vụ có trật tự. Đền Mẫu ngày càng tôn nghiêm, xứng với tầm vóc và ý nghĩa lịch sử, thoả mãn ước nguyện của đồng bào.
Ngày hội đền, Đền Mẫu Âu Cơ thực sự trở thành điểm hội tụ về nguồn của nhân dân, con Lạc cháu Hồng và khách thập phương.
Theo báo Phú Thọ