cuộc chiến Việt Nam từ 1954 đến 1975 đã chia các tác giả Mỹ viết sách chính trị và/hoặc lịch sử ra làm hai phe: Chống đối và Ủng hộ việc Mỹ tham chiến tại Việt Nam, mà họ mệnh danh là phái “chính thống” (orthodox) thì chống đối và phái “xét lại” (revisionist) thì ủng hộ. Một cách tổng quát, phái Chính thống gồm những tác giả như N. Chomsky, D. Halberstam, F. Fitzgerald, W. Fishel với quan điểm nước Mỹ đã sai lầm khi can thiệp vào Việt Nam là một “đồng minh” bất lực. Phái Xét lại gồm những tác giả như E. Hammer, N. Podhoretz, M. Moyar thì chủ trương ngược lại. Điều đáng chú ý là những tác giả thuộc Chính thống lại gồm rất nhiều người trong quá khứ đã từng ủng hộ ông Ngô Đình Diệm như J. Buttinger, M. Mansfield, D. Anderson và ngay cả Hồng Y Spellman nhưng sau đó thì hoàn toàn thất vọng, thậm chí còn chống đối lại ông Diệm và chế độ của ông ta.
Cho độc giả người Việt, những tác giả thuộc phái Xét lại thường phạm những lỗi lầm căn bản về văn hoá Việt Nam làm cho không còn tin tưởng để đọc tiếp. Lấy thí dụ của hai trường hợp tiêu biểu:
Thứ nhất là Francis X. Winters, giáo sư Đại học Georgetown, tác giả cuốn “The Year of the Hare: America in Vietnam”, University of Georgia Press xuất bản năm 1988. (Được hai ông cựu Bộ trưởng chế độ Diệm là Lâm Lễ Trinh và Tôn Thất Thiện, dĩ nhiên, hết lời ca ngợi). Sách nầy có những sai lầm như: Hồ Chí Minh sinh ở bên bờ sông Hương ở Huế, Thích Trí Quang là một luật sư thành công, đường mòn Hồ Chí Minh bắt đầu năm 1962. Ông Winters đã phải thú nhận những lỗi lầm sơ đẳng nầy khi bị một độc giả nêu ra trên tập san hữu khuynhNational Review năm 1989. Điều đáng buồn là ngay cả cái tựa sách (“The Year of the Hare” -để chỉ năm Qúy Mão, của cuộc đảo chánh 1963) đã cho thấy tác giả không phân biệt được văn hoá Việt và Tầu.
Thứ hai là Mark Moyar, giáo sư Đại học Thủy quân Lục chiến Mỹ, tác giả cuốn “Triumph Forsaken: The Vietnam War 1954-1965”, Cambridge University Press xuất bản năm 2006. (Cũng lại được ông Lâm Lễ Trinh khen ngợi hết lời). Cuốn sách nầy cũng chú trọng đến thời kỳ cai trị của Tổng thống Ngô Đình Diệm nhưng phân tích của tác giả thì quá sức nông cạn. Khi nói về ông Ngô Đình Nhu, tác giả khen là “một vị lãnh đạo tài giỏi, đã làm cho ông trở thành một trong những nhà tổ chức chính trị hữu hiệu nhất của Nam Việt-Nam.”(trang 35) Người Việt Nam, kể cả trùm mật vụ Trần Kim Tuyến (trong sách “Những Huyền Thoại và Sự thật về Chế độ NĐD” của Vĩnh Phúc) cũng phải chê đảng Cần Lao Nhân Vị, tổ chức Thanh Niên Cộng Hoà (TNCH) mà ông Nhu làm Thủ lãnh. Nói về “hữu hiệu” thì ai cũng biết trong ngày đảo chánh 1/11/63, cả cái tổ chức TNCH ấy chỉ có một ông Cao Xuân Vỹ làm việc, còn Phong trào Cách mạng Quốc gia và nhất là đảng Cần Lao Nhân Vị trước đó hét ra lữa thì nay hoàn toàn lặn đi đâu mất. Ba lực lượng chính trị do ông Ngô Đình Nhu “tổ chức” đó, khi chế độ lâm nguy và lãnh tụ bôn tẩu, thì tan như bọt xà phòng ! Còn cuộc đảo chánh giả Bravo do chính ông Nhu tổ chức bằng cách dựa vào tướng Tôn Thất Đính thì ông tướng nầy đã bị Đại tá Đỗ Mậu “tổ chức” rồi. Ngoài ra, cuốn sách dày 512 trang của Moyar phân tích chế độ Diệm mà chỉ nhắc tên ông Ngô Đình Thục 2 lần trong … 2 dòng, trong khi nhà văn hoài Ngô của năm 2010 là Nguyễn Văn Lục cũng phải công nhận rằng hai người có trách nhiệm nặng nhất làm cho nhà Ngô sụp đổ là ông Giám mục Thục và bà Ngô Đình Nhu.
Với những tác giả như vậy trong phái Xét lại, tác phẩm của giáo sư Seth Jacobs đã xuất hiện như một hải đăng chửng chạc chiếu sáng vào vùng sương mù của một cuộc tranh chấp đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi.
Tác phẩm “America’s Miracle Man in VietNam – Ngo Dinh Diem, Religion, Race, and U.S. Intervention in Southeast Asia” của tác giả Seth Jacobs, giáo sư Sử học tại Boston College, nguyên là một luận án tiến sĩ viết năm 1997. Sau đó, ông đã thu thập thêm tài liệu mới giải mật và cập nhật hoá rồi xuất bản cuốn sách nầy năm 2004 và tái bản năm 2006 (Duke University Press). Chủ đề của luận án nầy là lý do vì sao người Mỹ can thiệp vào Việt Nam và về sau đã trở thành một lỗi lầm tàn khốc cho “đồng minh” Việt Nam và cho chính cả nước Mỹ mà một nửa thế kỷ sau vẫn còn nhiều di chứng. Đó là một cái nhìn can đảm vì tác giả đã đề cập đến hai chủ đề “không nên bàn cải”: Tôn giáo và Chủng tộc. Một cách tổng quát, luận án của Seth Jacobs gồm hai phần chính. Bốn chương đầu chứng minh chính sách ngoại giao của Mỹ sau Đệ Nhị Thế chiến bị ảnh hưởng bởi ba yếu tố: Tôn giáo, Chủng tộc và Chủ thuyết Cộng sản. Hai chương cuối phân tích tiến trình quyết định của chính quyền Mỹ đã dựa trên ba yếu tố đó để chọn ông Ngô Đình Diệm về Sài Gòn lãnh đạo một “tiền đồn chống Cộng cho thế giới tự do” của Mỹ.
Phần đầu của sách phân tích 3 yếu tố chỉ đạo của chính sách đối ngoại Mỹ sau thế chiến thứ Hai có thể tóm lược như sau:
■ Về Tôn Giáo, luân lý nước Mỹ được dìu dắt bởi những khuôn mặt đáng nể như Mục sư Billy Graham (Tin Lành), Hồng y Francis Spellman (Công giáo). Mục sư Graham là bạn của 11 đời Tổng thống Mỹ, từ Eisenhower đến Obama, và sở hữu một đế quốc truyền đạo (evangelical empire) khổng lồ. Đặc biệt Hồng y Spellman, theo đúng đường lối chống Cộng sản triệt để của Vatican, nắm chức Tổng Tuyên úy của quân đội Mỹ (Military vicar of the U.S. armed forces). Khi qua Việt Nam năm 1955, dù chỉ là một chức sắc tôn giáo, ông dược Tổng thống Diệm tiếp đón như một quốc khách với đại tiệc tại Dinh Độc Lập. Năm 1952, Kinh thánh bán được 26.5 triệu cuốn trên toàn nước Mỹ. Hai siêu đại gia trong ngành truyền thông là DeWitt Wallace và Henry Luce, đều là con các nhà truyền giáo Tin lành, và siêu đại gia thứ ba là Randolf Hearst Jr. đã sử dụng tối đa các cơ quan truyền thông để truyền đạo Chúa dù tờ báo của họ là Life, Time, hay Popular Science, Mademoiselle, Fortune. Tác giả Jacobs cũng đã dành nguyên một chương (số Bốn) để nói về bác sĩ quân y Tom Dooley là một người Công giáo cuồng tín, kỳ thị chủng tộc đã gián tiếp đẩy nước Mỹ dính vào với Việt Nam qua cuộc di cư năm 1954 trong hình ảnh một đại thảm họa Cộng sản đang ụp lên đầu những người Việt Nam (mà ông thường gọi là “dân Á Đ ông” (the Asians) yếu đuối, khờ dại, dốt nát.
| | | |
Mục sư Billy Graham | Hồng Y Francis Spellman |
■ Về Chủng Tộc, giữa thế kỹ 20, người dân Mỹ có một khái niệm rất mơ hồ về những quốc gia ngoài nước Mỹ. Nhất là các nước Phi châu và Á châu. Sự “mơ hồ” nầy đưa đến tình trạng tổng quát hóa chủng tộc, coi tất cả dân Phi châu là da đen (Black) và dân Á châu là da vàng mà người Mỹ gọi là “Asian”. Siêu đại gia Henry Luce đã khởi đầu tình trạng nầy bằng cách yểm trợ nhà văn James Michener xuất bản một loạt sách về Á châu để “dạy” người Mỹ những “sự thật” về một giống dân Á châu “đơn giản, ngu dốt, vô chính trị” chưa thể có khả năng để tiếp nhận và sử dụng những khái niệm của Tây phương như dân chủ, tự do, nhân quyền. Bên cạnh đó, Hollywood cũng sản xuất những phim như The King and I, Sayonara, The Geisha Boy, … đưa ra hình ảnh những người Á Đông, chậm chạp, bán khai cần được “khai hoá”. Ngay cả cuốn “The Quiet American” nổi tiếng của Graham Green, được phe tiến bộ khen tặng nhưng khi nói về Phượng, người tình của ký giả Fowler, tác giả cũng cho thấy một cô gái Việt Nam da vàng ngu ngơ và an phận.
■ Về chủ thuyết Cộng sản (đang được xây dựng ở Nga Sô và Trung Quốc) người Mỹ được giáo dục từ trong trường học ra đến cuộc sống thực tiển rằng đây là hiểm họa lớn nhất của nước Mỹ về kinh tế (Tư bản chống Vô sản), về chính trị (Tự do, Dân chủ chống Độc tài, Độc đảng), về văn hoá (Tự do tư tưởng chống Kiểm duyệt tư tưởng), về tôn giáo (Hữu thần chống Vô thần), về quân sự (Bom A chống Bom A). Năm 1954, sau khi Trung Hoa lục địa và Bắc Hàn trở thành Cộng sản, Tổng thống Eisenhower nhìn Việt Nam như con bài thứ ba sẽ rơi vào tay Cộng sản và ông đã đưa ra “thuyết Domino” làm cho nước Mỹ càng cương quyết hơn trong chủ trương chống Cộng.
Phần thứ hai của cuốn sách đặt trọng tâm trên tiến trình chọn lựa đồng minh của Mỹ dựa theo ba tiêu chuẩn đã trình bầy để hoàn tất chiến thuật “ngăn chận Cộng sản Nga Tầu” (containment) của nhà ngoại giao George F. Kennan. Là đồng minh với Mỹ nghĩa là trước hết phảichống Cộng, thứ hai là phải không có vấn đề chủng tộc, thứ ba là theo môt tôn giáo mà người Mỹ cảm thấy thoải mái.
Theo những tiêu chuẩn nầy, các nước Tây Âu da trắng theo đạo Thiên chúa và chống Cộng được coi như đồng minh hạng số một. Và Mỹ đã lập ra NATO (Tổ chức Minh Ước Bắc Đại Tây Dương) năm 1949 để làm trái độn cho Mỹ chống Nga Sô ở ngay bên cạnh các nước Tây Âu. Cũng phải nói thêm trường hợp nước Ý sau Đệ Nhị Thế Chiến, tuy có một đảng Công sản rất mạnh (năm 1970 vẫn có 1/3 dân Ý bầu phiếu cho đảng nầy), nhưng vẫn được Mỹ nhận cho làm hội viên của NATO là vì sự có mặt của Vatican tại La-Mã có khả năng hoá giải ảnh hưởng của chủ thuyết vô thần nầy.
Xong phần NATO chống Nga Sô đến phần chống Tàu, nước Mỹ sửa soạn một “vòng đai ngăn chận” gồm 9 nước từ Nhật qua Hàn quốc xuống Đài Loan, Phi Luật Tân, Việt Nam Cộng Hoà, Indonesia, Thái Lan, Miến Điện và Ấn Độ. Trong 9 nước nầy, Ân Độ là cựu thuộc địa của Anh quốc nên nước Mỹ không dính vào. Thái Lan và Miến Điện có đạo Phật là quốc giáo và Indonesia có đại đa số dân theo Hồi giáo làm cho thành phần thân Do Thái trong chính quyền Mỹ không muốn liên hệ chặt chẽ.
Chỉ còn lại Đài Loan, Phi Luật Tân, Nam Hàn, Việt Nam Cộng Hoà và Nhật bản. Theo tác giả Seth Jacobs, đây là những nước có lãnh tụ chính trị theo đạo Thiên Chúa, trừ Nhật, đã được chính quyền Mỹ chọn làm “đồng minh” dựa theo ba tiêu chuẩn kể trên, trong những năm đầu tiên của cuộc Chiến tranh Lạnh.
1. ĐÀI LOAN: Từ khi thay thế Tôn Dật Tiên làm Tổng thống Trung Quốc và Chủ tịch Quốc Dân đảng năm 1928, Thống chế Tưởng Giới Thạch phải cầm đầu cuộc chiến chống quân xâm lăng Nhật và cuộc nội chiến chống Cộng sản của Mao Trạch Đông. Một năm sau, ở tuổi 42, khi muốn cưới Tống Mỹ Linh, vốn là con gái một nhà truyền giáo, Tưởng Giới Thạch đã ly dị vợ rồi đổi từ một Phật tử thành tín đồ đạo Tin lành (tương tự như ông tướng Nguyễn Văn Thiệu bỏ đạo Phật theo đạo vợ). Và (cũng như ông Ngô Đình Diệm) họ Tưởng được báo Time năm 1931 đăng hình bìa nhiều lần và ca ngợi là “nhân vật vĩ đại nhất của Viễn Đông”. Ông được báo chí Tin Lành và Công giáo tranh nhau phỏng vấn (hệt như ông Diệm, họ ca ngợi Tưởng Giới Thạch là một người “ngoan đạo và thánh thiện”) đến nổi nhiều nhà phân tích đã nghĩ là Tưởng Thống chế đang sử dụng tối đa chuyện đổi đạo của mình để lấy lòng dư luận Mỹ. Nhưng dù được sự ủng hộ triệt để về quân sự, kinh tế, chính trị và nhất là của giới truyền thông Mỹ, chế độ độc tài, tham nhũng quá độ của Tưởng Giới Thạch cũng đã đại bại trước Hồng quân của Mao Trạch Đông.
Năm 1949, Thống chế họ Tưởng xách tàn quân chạy qua tỵ nạn ở đảo Đài Loan, mơ một ngày về giải phóng Bắc Kinh không bao giờ trở thành hiện thực. Dù vậy, Tưởng Thống chế vẫn được Thiên Chúa giáo Mỹ tiếp tục bênh vực. Dân biểu Walter Judd, một cựu giáo sĩ từng truyền giáo bên Trung Quốc, đã không ngượng ngùng bênh họ Tưởng: “Chúng ta không đòi hỏi kẻ thù phải cải tổ, nhưng với đồng minh thì chúng ta bắt phải có dân chủ, phải tôn trọng nhân quyền – ngay tức khắc. Dân Mỹ đã chờ 175 năm mới có được một nền dân chủ nhưng Nam Hàn, Đài Loan, Nam Việt Nam thì phải có dân chủ ngay tức khắc … Đối với dân Á đông, đây qủa là một sự khó hiểu. Tưởng Giới Thạch, không phải là một kẻ ngoại đạo, dã man mà là một con chiên của Chúa.” Nhận xét cuồng tín nầy cũng không khác gì câu c ủa một ông Linh mục Việt Nam khác: “Ông Thiệu là một người tôi kính phục, một người có tinh thần quốc gia cao độ và cương quyết chống Cộng. Ông Thiệu là một người Công giáo đạo đức, chủ nhật nào cũng di nhà thờ xem lễ, và trước khi đi ngủ hai ông bà cùng nhau đọc kinh.” (“Bên Giòng Lịch Sử”, Cao Văn Luận, trang 363 - Nghĩa là Linh mục Luận có mặt trong dinh Độc Lập mỗi đêm trước khi ông bà Thiệu đi ngủ!)
2. PHI LUẬT TÂN: Ramon Magsaysay là một sĩ quan theo đạo Công giáo trong quân đội Phi Luật Tân. Ông đắc cử tổng thống năm 1953 với lập trường chống Cộng sản triệt để và đồng minh chặt chẻ với Mỹ. Tổng thống Magsaysay chết quá sớm trong một tai nạn máy bay năm 1957 nên khó có thể đi đến một kết luận rõ ràng về mối liên hệ giữa ông và Mỹ ngoài hai thành qủa rất được người Mỹ ca tụng: Tiêu diệt lực lượng Phi CộngHukbalahap và giúp Mỹ thành lập Tổ chức Minh ước Đông Nam Á (SEATO) vào năm 1954 để bao vây Trung Cọng. Magsaysay là một trong những trường hợp hiếm hoi mà liên hệ đồng minh của Mỹ có thể được coi như là thành công.
Kết qủa nầy đến từ sự kiện ông Magsaysay đã đạt được cao điểm trong cả ba yếu tố chọn lựa đồng minh của Mỹ. Chính trị và truyền thông Mỹ ủng hộ ông tối đa vì hai yếu tố Công giáo và chống Cộng. Bên cạnh đó, yếu tố chủng tộc cũng không là một trở ngại vì sau ba thế kỷ rưỡi liên tục bị đô hộ bởi ba đế quốc Thiên Chúa giáo(Tây Ban Nha, Anh và Mỹ), Phi Luật Tân đã thành một quốc gia không còn căn cước văn hóa đặc thù của chính mình nữa: Quốc gia nầy mất tên:: “Philippines” lấy từ tên của dòng họ Philip của các vua Công giáo Tây Ban Nha. Và mất ngôn ngữ vì tuy tiếng nói chính thức là Tagalog, nhưng cả nước, nhất là giai cấp từ trung lưu trở lên chỉ dùng tiếng Anh (ngay cả trong những hồ sơ chính thức), hệ qủa của một chương trình giáo dục sâu đậm và rộng rãi của các trường Giòng Công giáo trong thời kỳ đô hộ giống như người Pháp đã cố gắng áp dụng ở Việt Nam. Tuy Phi Luật Tân làm tròn bổn phận “tiền đồn chống Cộng” cho Mỹ, nhưng xã hội Phi vẫn nổi tiếng với nạn đĩ điếm và tội ác xã hội dù hơn 80% dân Phi theo đạo Công giáo, người dân Phi vẫn nghèo đói dưới những chế độ độc tài, tham nhũng như Ferdinand Marcos (hãy tưởng tượng Việt Nam không có một Tổng thống Ngô Đình Diệm mà thay vào đó mọi người sẽ suy tôn Tổng thống Gioan Baotixita Ngô Muôn Năm!).
3. NAM HÀN: Tổng thống Lý Thừa Vãn (Syngman Rhee) có khá nhiều điểm giống ông Ngô Đình Diệm. Ông xuất thân từ một gia đình quan lại. Trước khi nắm chính quyền ông cũng đã trãi qua một thời gian ở Mỹ. Ông được chính quyền Mỹ ủng hộ vì đã đổi theo đạo Chúa (Tin Lành) và rất chống Cộng. Báo Reader’s Digest tuyên dương ông là một “nhà lãnh đạo Gia tô vĩ đại”. Cũng như Tổng thống Diệm sau khi dẹp được các giáo phái, Lý Tổng thống đã được tướng James Van Fleet, Tư lệnh Quân đoàn 8 của Mỹ ở Nam Hàn khen ngợi: “Lý Tổng thống đã biến đổi một quốc gia lạc hướng và hỗn loạn thành một trong những tiền đồn chống Cọng hùng mạnh nhất thế giới”. Tuần báoTime của đại gia Henry Luce so sánh ông với George Washington và, trong tinh thần “khai hoá” kiểu thực dân Tây, đã cho rằng dân trí Hàn Quốc “chưa phát triển đến mức có thể có một nền dân chủ kiểu Jefferson của Mỹ”. Năm 1945, Nhật bản bại trận, ông theo quân Mỹ về nước. Ba năm sau ông được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc như ông Diệm năm 1955. Trong thời kỳ nắm quyền, chế độ Lý Thừa Vãn cũng có một nét giống chế độ Diệm là dùng lý do chống Cộng để đàn áp đối lập dù đó là những người đã từng cùng với ông kháng chiến chống đế quốc Nhật như Kim Ku, Yo Woon Young.
Lý Tổng thống có ba điểm khác căn bản với ông Diệm là (1) ông đã đổi từ gốc đạo Phật qua đạo Tin Lành, (2) chẳng những không hợp tác mà còn tham gia kháng chiến vừa chống Nhật vừa chống chế độ quân chủ của dòng họ Yi và bị đi tù 6 năm, và (3) khi bị dân chúng, sinh viên phản đối chế độ độc tài tham nhũng, ông không tìm cách thỏa hiệp với Cọng sản Bắc Hàn mà từ chức và bỏ nước ra đi sống đời lưu vong ở Hạwaii. Là vị lãnh tụ một quốc gia đứng đầu sóng ngọn gió với Bắc Hàn và Trung Cộng, Lý Tổng thống dẫu độc tài tham nhũng bao nhiêu vẫn được người Mỹ bênh vực đến giờ phút chót như Tổng thống Thiệu của Việt Nam. Nghĩa là ông đã được một máy bay của CIA Mỹ đưa ông ra khỏi nước một ngày cuối tháng 4 năm 1960 (trước ông Thiệu đúng 15 năm) khi lực lượng biểu tình chống đối sắp tràn lên toà Bích Ốc (Blue House) để bắt ông xử tội độc tài và tham nhũng (Thứ trưởng Tài chính của ông, Kim Yong Kap, tiết lộ Lý Tổng Thống đã tham nhũng 20 triệu Mỹ kim). Điểm đặc biệt của Nam Hàn là sau kinh nghiệm đổ vỡ với Lý Thừa Vãn, những chính phủ quân nhân tiếp theo đã chẳng những không làm cho đồng minh Mỹ “tháo chạy” mà ngược lại, trong chuyến công du ngày 11/11/2010 mới đây, TT Obama đã tuyên bố tại thủ đô Seoul rằng sau gần 60 năm hợp tác: “nước Mỹ sẽ không bao giờ từ bỏ trách nhiệm bảo vệ an ninh cho Nam Hàn.” (“the U.S. ‘will never waver’ in its commitment to South Korea's security”)
4. NHẬT BẢN: Tháng 8 năm 1945, sau khi nước Nhật bại trận, tướng Douglas MacArthur dẫn quân đội Mỹ đặt bộ Tổng chỉ huy tại Đông Kinh. Một trong những điều đầu tiên ông tướng nầy làm là kêu gọi các nhà truyền giáo Tin lành và Công giáo hãy tích cực “lấp đầy khoảng trống tâm linh” của nước Nhật. Và ông đe doạ: “nếu không lấp đầy nước nầy bằng Thiên chúa giáo thì nó sẽ bị Cộng sản lấp đầy.” Ông nhấn mạnh: “nước Nhật không thể trở thành dân chủ nếu không có đạo Thiên chúa.” Ông Tướng nầy cũng nói thẳng rằng “nhiệm vụ của ông với tư cách là một Chiến sĩ của Chúa … là phục sinh lại tôn giáo cho nước Nhật.” Hoàng tử Higashikuni, lãnh chức Thủ tướng đầu tiên của Nhật sau Đệ Nhị Thế chiến, tuyên bố với một phái đoàn truyền giáo Mỹ rằng: “Chúng tôi cần một chuẩn mực đạo đức mới như của Chúa Giê-Su. Đạo Phật hay Thần đạo (Shinto) không bao giờ có thể dạy chúng tôi tha thứ cho kẻ thù.” Đọc câu tuyên bố nầy ta mới thấy được ông Thủ tướng Nhật đã hiểu rất rõ tiêu chuẩn “tôn giáo” của nước Mỹ để hạ mình đến mức chê cả đạo Phật và Thần đạo của quốc gia mình. Nhất là sau 54 ngày làm Thủ tướng, ông đã quyết định về hưu và lập một Thiền đường tên Higashikuni-kyo, và bị Bộ chỉ huy quân đội Mỹ đóng cửa. Nhưng nước Mỹ đã thất bại trong cố gắng thay đổi tôn giáo nước Nhật vì mối liên hệ quá chặt chẽ giữa văn hoá và đạo Phật của xứ Võ sĩ đạo nầy. Mối liên hệ đồng minh Nhật-Mỹ là một mối liên hệ cân bằng và thành công khi nước Mỹ không áp dụng ba tiêu chuẩn đã kể và yếu tố kinh tế có thể được coi như đã giúp nước Nhật giữ được vị thế độc lập của mình một cách vững chãi.
5. VIỆT NAM CỘNG HÒA: Qua bốn đồng minh trên của Mỹ, ta có thể thấy ông Diệm từ Vatican bay đến Nữu Ước năm 1951 là “đúng người, đúng chỗ và đúng lúc” để được Mỹ chọn làm đồng minh trong cuộc chiến tranh lạnh chống Cộng sản. Ông là một con chiên Công giáo thuần thành có bảo đảm của Hồng y Spellman. Trong trường hợp ông Diệm, chỉ yếu tố tôn giáo đó mà thôi cũng đã đủ mạnh để thuyết phục người Mỹ về yếu tố chính trị (chống Cộng) và yếu tố chủng tộc (văn hoá Gia tô sẽ kéo dân tộc Việt đến nằm ngoan ngoản dưới cái dù vĩ đại của văn hoá Tây phương như các ông Cố Tây và các ông quan Tây Thực dân đã ráng thực hiện trong gần 100 năm trước đó). Và đây là một chìa khóa của sự sai lầm trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở Việt Nam, ngay sau ngày thực dân Pháp bước chân ra và họ bước chân vào, khi họ nhầm lẫn về vai trò của một người lãnh tụ Công giáo cuồng tín trong một nước mà đa số người dân theo, hoặc chịu ảnh hưởng sâu đậm của, Phật giáo.
Theo tác giả Seth Jacobs, chìa khóa nầy lại bị kẹt cứng thêm nữa vì yếu tố thời gian. Nước Mỹ của Eisenhower, McCarthy, Spellman đã bị thay thế bởi nước Mỹ của Kennedy, Martin Luther King Jr. Điều oái oăm là sự kiện ông Kennedy được đắc cử tổng thống, dù là người Công giáo trong một quốc gia đa số dân theo Tin Lành, đã đem đến hậu qủa là yếu tố Công giáo của TT Diệm trở nên không còn quan trọng lắm cho nước Mỹ nữa. Khi cử tri Mỹ chọn ông Kennedy vào chức Tổng thống năm 1960, họ đã bầu với tâm trạng “đạo nào cũng được”.
Ngược lại, trong khi yếu tố “chống Cộng” gia tăng tầm quan trọng (khi Kennedy phải đối đầu với Kruschev qua vu khủng hoảng đầu đạn nguyên tử ở Cuba sát nách nước Mỹ), thì ông Diệm và Nhu lại (vừa đàn áp Phật giáo vừa) đi gặp “đồng chí” Phạm Hùng và chưng cành đào của ông Hồ Chí Minh trong dinh Độc Lập thì “đồng minh phải tháo chạy đồng minh” để yểm trợ cho “đảng Kaki” chống Cọng lật đổ Diệm-Nhu là một hậu quả không làm ai ngạc nhiên cả.
Thời gian cũng là một nhân tố làm cho yếu tố chủng tộc thay đổi. Từ chiến thắng đế quốc Anh bằng thuyết “bất bạo động” của Gandhi cho đến hình ảnh tù binh thực dân Pháp sắp hàng sau cuộc đại bại ở Điện Biên Phủ đã đem đến cho người dân Mỹ những suy tư khác (bạo động hay bất bạo động) về các dân tộc ở ngoài nước Mỹ. Để thuyết phục người Mỹ về sự hiện hữu của những nền văn hoá ngoài Tây phương, người Mỹ của thập niên 1960 chỉ cần so sánh hình ảnh tàn bạo, dã man của cảnh sát Mỹ dẫn chó đi cắn những người da đen đi biểu tình ở ngay thủ đô Hoa Thịnh Đốn và hình ảnh tranh đấu bất bạo động của Hoà thượng Thích Quảng Đức trên truyền hình Mỹ.
Trong phần chót của chương kết luận, tác giả Seth Jacobs viết:
“Giữa những chính quyền nối tiếp nhau sau khi ông Diệm bị lật đổ, chỉ có một nhân vật được Mỹ ủng hộ đã cầm quyền được lâu dài như ông Diệm: Nguyễn Văn Thiệu. Khoảng năm 1970, các ký giả Mỹ ở Sài Gòn thường nói giễu là chiến lược của Mỹ “Nổi hay chìm với Ngô Đình Diệm” đã biến thành ra “Đi đến cùng với Nguyễn Văn Thiệu”. Tổng thống Thiệu tuy là một chính trị gia mềm mỏng và ít cuồng tín hơn ông Diệm nhưng vẫn là một người theo đạo Công giáo. Cái yếu tố (tôn giáo) đã làm cho Mỹ từng quyết định ủng hộ vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hoà vẫn vướng vất, dù kín đáo, cho đến nền Cộng hòa của vị tổng thống cuối cùng của miền Nam.”
Nghĩa là vẫn một chế độ loại “Diệm không Diệm” thì người Mỹ mới ủng hộ theo “yếu tố tôn giáo” của họ. Mặc dù sau đó cả người Mỹ và cả ông Thiệu đều phải “tháo chạy” để mất luôn cả miền Nam. Thực trạng cay đắng nầy cần được đối chiếu với một hiện trạng mà Samuel Huntington đã tóm lược một cách thông suốt:
“Các quốc gia ngoài khối Tây phương có những trở ngại khác nhau khi đến với Tây phương. Ít trở ngại nhất là những nước Nam Mỹ và Đông Âu. Nhiều trở ngại là những nước theo đạo Gia-tô nguyên thủy thuộc Nga Sô (của thời kỳ Chiến tranh Lạnh). Nhiều trở ngại nhất là những xã hội Hồi, Khổng, Ấn và Phật giáo. Riêng Nhật Bản đã tự tạo cho mình một vị thế đặc biệt trong vai trò một thành viên liên hiệp không chính thức: Tuy trong hàng ngũ của Tây phương ở một vài khía cạnh nhưng Nhật Bản rõ ràng không phải là Tây phương trong nhiều địa hạt quan trọng.”(“The obstacles to non-Western countries joining the West vary considerably. They are least for Latin American and East European countries. They are greater for the Orthodox countries of the former Soviet Union. They are still greater for Muslim, Confucian, Hindu, and Buddhist societies. Japan has established a unique position for itself as an associate member of the West: it is in the West in some respects but clearly not the West in important dimensions.” – The Clash of Civilizations, Foreign Affairs, Summer 1993).
Đọc xong tác phẩm nầy của giáo sư Seth Jacobs, người Việt Nam sẽ nhận chân rõ rệt hơn não trạng chính trị của siêu cường Mỹ quốc thì câu hỏi đặt ra có phải là: Trong trật tự mới của thế giới, với những quốc gia Á châu như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Singapore đang sánh vai một cách tự cường, tự lập với các quốc gia Tây phương, thì liệu Việt Nam sẽ chuyển mình vươn cánh thành một con rồng trong bầu trời độc lập của mình như Nhật Bản hay vẫn “lê gót nơi quê người” đi tìm một “đồng-minh-không-bao-giờ-tháo-chạy” theo những tiêu chuẩn hoang tưởng?
LÝ NGUYÊN DIỆU