Thế là Tổng thống Venezuela, Hugo Chavez cũng đã “thuận thế vô thường” ở tuổi 58. Truyền thông trong nước đưa tin và ca ngợi ông như vị “Tổng thống của dân nghèo”, nhưng với một đất nước phát triển và có ảnh hưởng lớn ở châu Mỹ như Venezuela, thì cần phải nói ông là Tổng thống của một đất nước hùng mạnh, dĩ nhiên là của đa số dân giàu, vì dân giàu thì nước mới mạnh, và ngược lại.
Tại sao người ta cứ phải nhắc đến cái nghèo khổ (bần cố nông) như một “giá trị”, “di sản” đáng tội nghiệp, nhằm phản ánh “chân lý”, “đạo đức xã hội” của lãnh tụ, trong khi những lời hô hào phải thoát nghèo, phải chống tham nhũng vẫn tỏ ra ít hiệu lực trước thực tế cuộc sống?
Quyền lực dẫu vô biên vẫn không bằng nghiệp lực, điều đó cho thấy vai trò (sinh tử) của cá nhân ảnh hưởng như thế nào đến chính sách và vận mệnh của một quốc gia. Dù ông Hugo Chavez đã lãnh đạo một nhà nước “tự nhận” là theo Xã hội chủ nghĩa, mà không theo Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, nhưng vẫn nhận được quan tâm đáng kể từ giới lãnh đạo Việt Nam. Tuy nhiên, cần phải phân biệt giữa quốc gia Cộng sản, nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, và một số nước tự nhận là theo Xã hội Chủ nghĩa.
Khoảng cách "triết học" giữa Việt Nam và Venezuela là khoảng cách của một nước Cộng sản (Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh) và một nước chỉ tự nhận là theo “Xã hội chủ nghĩa” (không Mác - Lê Nin). Có lẽ Venezuela thân thiết với Cu ba (một nước Cộng sản) ở khoảng cách địa lý và những vấn đề chung của khu vực Châu Mỹ, hơn là thân thiết về mặt “triết học Cộng sản”.
Chính vì thế, một hình ảnh dễ nói trong đám tang của ông Hugo Chavez là hình ảnh cây thánh giá và Đức Chúa Giê-Su phía sau quan tài. Không có một nước Xã hội chủ nghĩa (“thuần chủng”) nào mà đám tang lãnh tụ có hình ảnh ấy, bởi biểu tượng tôn giáo vẫn là một điểm “nhạy cảm”, thậm chí đối lập với tư tưởng vô thần.
Nói như vậy để thấy, vai trò của nhà nước và tôn giáo trong một quốc gia. Khi mối quan hệ này không chính danh, không đàng hoàng, không gắn bó, thì tình trạng bằng mặt mà không bằng lòng vẫn xảy ra, và niềm tin giữa họ không bao giờ được củng cố. Triết học Mác - Lê Nin đã cho ra một định nghĩa về tôn giáo gây nên nhiều phản ứng, rằng nó như một thứ thuốc phiện ru ngủ quần chúng nhân dân. Đó là điểm không tương đồng khi định nghĩa này được kéo từ xã hội phương Tây về xã hội phương Đông, và được “ứng dụng” một cách máy móc.
Có “ru ngủ” hay không khi Tổng thống Mỹ Obama nhậm chức vẫn đặt tay lên quyển kinh Thánh để tuyên thệ, trong khi ông ta vẫn có thể cho biết rằng mình vẫn thường xuyên ngồi thiền, hay thỉnh thoảng đọc sách Phật. Rất nhiều người Mỹ không theo Ki-tô giáo, hay theo các tôn giáo khác nhau chẳng mấy khó chịu vì điều đó, bởi họ thừa biết nó chỉ mang tính biểu tượng.
Nhưng đó cũng phần nào cho thấy một quốc gia mà thế quyền và giáo quyền được kết hợp một cách tự nhiên, hài hòa, bên cạnh những bộ luật tôn trọng đầy đủ quyền tự do theo hay không theo tôn giáo của bất kỳ ai, dù là tổng thống hay thứ dân, dù có đảng hay không có đảng.
Ở Việt Nam, nếu lãnh đạo nào mới chỉ thân thiết thôi, chứ chưa nói đến việc quy y hay chịu phép rửa tội, thì đã bị những người có tôn giáo xem là có thể họ sẽ “ưu ái”, “thiên vị” cho tôn giáo mà họ thân thiết. Điều này cho thấy, cái “di sản” ngạo ngược, bất bình đẳng tôn giáo ở cái thời Diệm - Nhu đã chưa thể hàn gắn được cho thực tại tôn giáo ngày hôm nay, cụ thể giữa Ki-tô giáo và Phật giáo. Cũng xin nói thêm về bản nhận định và góp ý của Hội đồng Giám mục Việt Nam về cái “quyền tự do tôn giáo”, bởi nghe thì khá kêu, nhưng vì sao “bên ấy” vẫn ra sức cải đạo (có khi như giành giật) những người ngoài Ki-tô, và tại sao phải dùng hôn nhân để thúc ép người ngoài Ki-tô phải đi học đạo… Hoá ra những cái “độc” như “độc quyền” và “độc thần” cũng có những điểm gần gũi, chỉ là “quyền lực” thế tục chưa rơi vào tay họ điều khiển mà thôi.
Một điểm khác nữa, nói đến lòng yêu nước và chủ nghĩa dân tộc, thì từ quá khứ lịch sử đến hiện tại, dù nói gì thì những người Ki-tô giáo vẫn khó thông được, nhất là khi vẫn lệ thuộc vào quốc gia Vatican. Chả lẽ quốc gia tôn giáo thì không phải quốc gia và được ngoại lệ trên mảnh đất Việt Nam ư? Đây là điểm mà hầu hết giới Phật giáo, từng “thừa hưởng” những di sản tồi tàn mà Ki-tô để lại cho họ (không một lời thống hối), tỏ ra không mấy tin tưởng ở bất cứ ngọn cờ nào mà Ki-tô khởi xướng, các giới khác cũng nên nhìn ra điều này.
Và có lẽ với họ, sự lãnh đạo của người Cộng sản hiện nay vẫn “an toàn” hơn rất nhiều so với những thế lực khác mà “Ki-tô” đang muốn giật dây hay lợi dụng. Đó là chưa kể đến phương châm của Giáo hội PGVN là “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, cần phải phân biệt giữa “Chủ nghĩa xã hội” và “Xã hội chủ nghĩa”, và yếu tố không Mác - Lê Nin trong đó, để không suy diễn tuỳ tiện về Phật giáo. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma tự nhận mình một nửa là Phật giáo và một nữa là Cộng sản (trên tinh thần và cả giá trị của từ này).
Tuy Hiến pháp Việt Nam cũng có quy định về quyền tự do tôn giáo, nhưng không dễ dàng để người ta nhận mình có tôn giáo khi tham gia vào bộ máy công quyền, nhất là những người có thẻ Đảng. Điểm bất thường này, lâu dần đã trở thành những ứng xử kiểu “kỵ huý”, nên lãnh đạo mà đi lễ chùa, thờ Phật, quy y, học đạo, nghe kinh sẽ trở thành tâm điểm “soi mói” của truyền thông và đồng nghiệp. Đây cũng là điểm mà khi tấn công vào chế độ này, người ta phải song song tấn công vào Phật giáo, vì dẫu gì Phật giáo vẫn được xem như tôn giáo chính của dân tộc, gắn bó mật thiết với chế độ. Nhưng đây cũng là điểm gây ra sự thiếu tự tin và mâu thuẫn của giới lãnh đạo mỗi khi phải chia tách giữa cái chất vô thần và tình cảm, niềm tin tôn giáo của mình, trước thực tế phải nhanh chóng thừa nhận “tính chất lâu dài” của tôn giáo trong mọi xã hội, mọi thể chế.
Những người đối lập với nhà nước nhìn vào xu hướng xã hội trên mà phân ra làm “linh mục quốc doanh”, “sư quốc doanh” nhằm chỉ những người gắn bó mật thiết với nhà nước, và những linh mục, nhà sư ngoài quốc doanh, thường là những người bất đồng với nhà nước. Trong khi chuyện một chức sắc tôn giáo “gắn” với nhà nước hay không “gắn” với nhà nước thì quốc gia nào cũng có và họ xem đó là điều hết sức bình thường, ở cái quyền mà họ được luật pháp cho phép.
Lãnh đạo nào theo đạo Phật, ủng hộ Phật giáo phát triển thì cứ nói là mình theo Phật, theo Ki-tô, ủng hộ Ki-tô phát triển thì cứ nói là mình theo Ki-tô. Chả có Phật tử Mỹ nào bắt bẻ chuyện ông Obama đặt tay vào kinh Thánh trong lễ nhậm chức, hay quyên tiền để xây một ngôi nhà thờ. Vấn đề là, có tôn giáo hay không, đều phải tuân thủ quy định của pháp luật, và vấn đề là khi chết có được Chúa hay Phật, hay Mác - Lê “rước đi” hay không…
Thích Thanh Thắng (lieuquanhue.vn)