LTS: Ngày 24-3 vừa qua, Quỹ văn hoá Phan Châu Trinh (QVHPCT - một loại NGO *, tổ chức phi chính phủ) trao giải thưởng cho Keith Weller Taylor (và một vài người khác), và chủ trương dựng ngôi đền Tinh Hoa Văn Hoá Việt Nam (lúc đầu thờ 3 người, bắt đầu là Petrus Ký **). Hai hành động trên đây của QVHPCT (mà người chủ chốt là Nguyên Ngọc, trưởng ban vận động thành lập Văn đoàn Việt Nam Độc lập) bị các thiện tri thức phản đối. Tạp chí HỒN VIỆT trong số mới nhất (số 92, tháng 5-2015) đăng 3 bài phê phán 3 đối tượng: Nguyên Ngọc, Keith Weller Taylor, và Petrus Ký. Việc "tôn vinh" cùng một lúc Pestrus Ký và Keith Weller Taylor khiến chúng ta không khỏi nghĩ tới một "liên minh" giữa hai thế lực đen tối, đang vận động biện minh cho chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, phân biệt để chia rẽ những nhóm người Việt, tô điểm lại để biện minh chế độ miền Nam,.... Đó là một nước cờ xâm lược văn hóa có tính toán rõ rệt, chứ không phải chỉ là một chuyện tình cờ.
"Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà"
(cụ Đồ Chiểu)
Vân Tiên, tên nhân vật chính trong cuốn truyện thơ Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu, người có tinh thần: "Giữa đường thấy chuyện bất bình, chẳng tha!" Đó cũng chính là tinh thần của bài viết dưới đây của Nguyễn Đình Vân Tiên, hậu duệ Cụ Đồ Chiểu. Để tìm hiểu quan điểm của Keith lật ngược sự thật về chiến tranh Việt Nam như thế nào, xin mời bạn đọc cùng xem và ủng hộ quan điểm chận đứng những hành động vinh danh những người thuộc thế lực đen tối. (SH)
Ảnh của KWT, http://lrc.cornell.edu
Tối 24/3/2015, tại khách sạn Caravelle ở TP. Hồ Chí Minh, Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh (QVHPCT) tổ chức trao giải thưởng năm 2015 cho một số người, trong đó có Keith Weller Taylor (KWT).
Trong diễn văn đọc tại buổi lễ, Nguyên Ngọc (NN) thay mặt QVHPCT ca tụng KWL hết lời: "Keith Taylor là một trong những nhà Việt Nam học nổi tiếng nhất, cả ở Việt Nam, cả ở nước ngoài"(1). NN nói tâng bốc thế thôi, chứ ở Việt Nam có bao lăm người biết KWT là ai. Hãy nghe ông ta tự bạch (2):
Tháng 5 - 1968, KWT tốt nghiệp đại học. Lúc đó, do tác động của cuộc tổng tiến công của quân dân miền Nam Việt Nam, chính phủ Mỹ không cho sinh viên tiếp tục hoãn dịch rộng rãi như trước. KWT phải vào lính, hoặc "bị bắt quân dịch và bị gửi đi bất cứ nơi nào để làm bất cứ một phận sự gì", hoặc "chọn cho mình một nhiệm vụ trong quân đội". KWT chọn hướng thứ hai : ông ta xin gia nhập ngành quân báo để được huấn luyện về tình báo và tiếng Việt trong hai năm với hy vọng "may ra chiến tranh sẽ kết thúc trước khi năm học được hoàn tất". Hy vọng đó không thành sự thật, KWT bị gửi sang chiến trường Việt Nam năm 1970 với cấp bậc trung sĩ.
KWT kể: "Tôi nhận thấy một vấn đề ở Việt Nam: quân đội Mỹ đang trong chiều hướng bị mất tinh thần. Sau khi công luận [ở Mỹ] quay lưng lại với cuộc chiến vào năm 1968, phong trào phản chiến thâm nhập vào quân đội Mỹ ở Việt Nam. Tất cả các vấn nạn thường thấy trong cuộc chiến như xì-ke, xung đột sắc tộc, bạo hành, giết hại nhau và bất phục tùng đều là bằng chứng đã ảnh hưởng đến tinh thần tác chiến của quân đội [Mỹ ở Việt Nam] và, ít ra theo hiểu biết của tôi, chúng có liên quan đến sự kiện: do hệ quả của sự lãnh đạo tồi, [nhân dân] nước Mỹ không còn ủng hộ chiến tranh, nhưng chúng tôi vẫn đang được kỳ vọng phải tiếp tục chiến đấu. Các nhà lãnh đạo trong quân đội, cả quân nhân lẫn dân sự, nhận ra sự cần thiết phải "tái phối trí" quân đội ra khỏi Việt Nam [rút dần quân Mỹ về nước theo chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh] càng nhanh càng tốt để ngăn chặn tinh thần bất mãn lan rộng sang các chiến tuyến khác trên thế giới. Trong khi đó, chúng tôi đã được yêu cầu thử thời vận của mình như là "người tử trận cuối cùng ở Việt Nam" (…) Rõ ràng tôi đã bị ảnh hưởng bởi não trạng bất mãn này. Đối với tôi, dường như cuộc chiến đang bị thua (the war was being lost) và chúng tôi, chỉ đơn giản là một hậu vệ có thể bị hy sinh. Tôi không thích điều đó. Tôi trở nên nghi ngờ cấp trên của tôi, cảm nhận rằng sự thất trận (the debacle) mà chúng tôi đang tham gia ít nhất đã giúp cho sự nghiệp của họ cơ hội để thăng tiến, trong khi đối với những phần tử còn lại trong chúng tôi chỉ còn một băn khoăn giữa sự sống hay cái chết".
May cho KWT, ông ta không chết ở Việt Nam mà chỉ bị thương, được giải ngũ và trở về Mỹ giữa năm 1971 với tâm trạng "choáng váng và mất phương hướng"(dazed and disoriented). Ông viết: "Tôi đã giận dữ vì đã phải hy sinh tuổi trẻ của mình cho sự vô dụng của người già". Vì vậy, "trong hơn hai thập kỷ, tôi cưỡng lại tư tưởng của bản thân rằng mình là một cựu chiến binh của cuộc chiến tranh Việt Nam. Tôi muốn được trở về với cuộc sống và không được mô tả bởi câu chuyện đau buồn đó. Tôi không thích Đài tưởng niệm ở Washington, D.C với tên của tất cả những người tử vong được khắc trên một bức tường đá. Đó là đài tưởng niệm cho người chết, nhưng tôi là một người sống sót và bức tường này không có liên hệ gì với tôi".
Để "trở về với cuộc sống", tháng 1 - 1972, KWT đã ghi danh làm nghiên cứu sinh tại Đại học Michigan. Vì đã được học tiếng Việt trước đó, KWT chọn lịch sử Việt Nam cổ đại (từ khi lập quốc đến giữa thế kỷ X) làm đề tài luận án, xem đó là "một lối thoát an lành cho kinh nghiệm rối ren của cá nhân tôi đối với cuộc chiến Việt Nam". Luận án được bảo vệ năm 1976, được sửa sang lại thành sách, xuất bản năm 1983 dưới nhan đề "The Birth of Vietnam" (Sự ra đời của Việt Nam). KWT tránh chọn đề tài liên quan đến lịch sử Việt Nam hiện đại vì không muốn đụng tới cuộc chiến tranh mà ông ta đã tham dự ở Việt Nam.
Lâu nay, hầu hết người Mỹ tự hào đất nước họ là siêu cường số 1 thế giới, đánh đâu thắng đó, nên họ không thể nuốt trôi thất bại thảm hại trước quân và dân một nước nhỏ bé chưa phát triển như Việt Nam. Bên cạnh nỗi buồn chiến bại đó là mặc cảm tội lỗi vì nước Mỹ đã ném bom, rải hóa chất độc, thảm sát, tra tấn, … gây bao tang thương chết chóc cho nhân dân Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu Mỹ chỉ ra những sai lầm trong chính sách đối với Việt Nam của nhiều đời tổng thống Mỹ suốt 30 năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945 - 1975). Sau một thời gian im lặng, Robert McNamara, cựu bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, người được xem là "kiến trúc sư của chiến tranh Việt Nam" đã lên tiếng thừa nhận: "Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp" (We were wrong, terribly wrong) (3). Tuy chiến tranh Việt Nam đã kết thúc, nhưng vẫn tiếp tục phủ bóng đen lên lương tâm người Mỹ. Tâm trạng đó được gọi là "hội chứng Việt Nam" (Vietnam Syndrome).
Từng tham chiến ở Việt Nam, KWT bị "hội chứng" ấy dày vò. Ông ta tâm sự: "Rất nhiều năm, kinh nghiệm chiến trường của tôi giống như một cục bướu lớn không tiêu hóa nổi vẫn nằm sâu trong tâm thức". Nếu thỉnh thoảng bị yêu cầu nói về chiến tranh Việt Nam, ông ta thừa nhận: "Tôi luôn ngán ngẩm khi phải làm điều đó, bởi vì nói chuyện trước công chúng về cuộc chiến thường mang lại cho tôi cảm giác buồn nôn".
Một số người Mỹ hiếu chiến không muốn nước Mỹ đắm chìm lâu dài trong "hội chứng Việt Nam », sợ nó ảnh hưởng đến vai trò của Mỹ trên trường quốc tế. Ronald Reagan lên tiếng kêu gọi: "Chúng ta đã sống với "hội chứng Việt Nam" trong thời gian quá lâu… Năm tháng trôi qua, người ta nói với chúng ta rằng hòa bình sẽ đến nếu chúng ta ngưng can thiệp [vào các nước khác] và trở về nước [Mỹ]. Đã đến lúc chúng ta thừa nhận rằng sự nghiệp của chúng ta [ở Việt Nam] là cao quý… Chúng ta sẽ làm ô danh việc tưởng nhớ 50.000 thanh niên Mỹ đã chết trong sự nghiệp ấy nếu chúng ta cứ cảm thấy phạm tội như thể chúng ta làm một điều gì đó xấu hổ và chúng ta bủn xỉn trong việc đối xử với người [lính từ Việt Nam] trở về"(4).
Sau lời hô hào của R. Reagan, khuynh hướng "xét lại chiến tranh Việt Nam" (Vietnam War Revisionism) xuất hiện trong giới nghiên cứu lịch sử ở Mỹ nhằm biện hộ cho sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam. KWT đã tìm đến khuynh hướng này để mong "vứt bỏ cảm giác tội lỗi sai lầm về cuộc chiến tranh mà [ông ta] đã cưu mang khoảng một phần tư thế kỷ".
Năm 1998, ông ta viết bài "Các xung đột vùng miền giữa các dân tộc Việt từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XIX" (Regional Conflicts among the Viêt Peoples between the 13th and 19th Centuries)(5). Ngày 26/6/2003, trả lời phỏng vấn của đài BBC nước Anh, ông ta muốn đưa ra "một cái nhìn mới về lịch sử Việt Nam"(6). Mùa thu năm sau, trên tạp chí Michigan Quarterly Review, KWT giải thích "đã bắt đầu dạy về chiến tranh Việt Nam như thế nào". Cách nay hai năm, KWT cho xuất bản cuốn Một lịch sử của người Việt Nam (A History of the Vietnamese) (7). Trong cuốn sách này cũng như các bài viết vừa kể, KWT tự phủ nhận những gì bản thân ông đã viết trong cuốn sách đầu tiên The Birth of Vietnam.
<=>
Không khó để chỉ ra những sai lầm nghiêm trọng trong kiến thức và nhận thức của KWT. Một số nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài đã có bài phê bình. Chẳng hạn giáo sư Norman G. Owen đã đưa ra một số nhận xét về cuốn A History of the Vietnamese như sau:
“Về việc Mỹ dính líu [ở Việt Nam], Taylor để lộ ra sự mâu thuẫn lớn trong suy nghĩ, và chương trọng yếu cuối cùng (“Từ hai nước trở thành một nước” từ trang 561 đến trang 619) có lẽ là chương gây tranh cãi nhiều nhất. Ông ta xuất hiện như người cuối cùng (…) bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng hòa chống lại cả những người Cộng sản (…) lẫn những người Mỹ (…). Ông ta không biết hay tránh né việc những người tả khuynh phê phán Mỹ phá hoại Hội nghị Genève năm 1954, khiêu khích hay ngụy tạo các sự kiện ở vịnh Bắc Bộ năm 1964 (để có cớ mở rộng chiến tranh [ra miền Bắc]), phá hoại cuộc đàm phán ở Paris năm 1968, “bí mật” ném bom Căm-pu-chia năm 1969 và tiến hành vụ ném bom Hà Nội vào dịp lễ Chúa giáng sinh năm 1972 mà không có lý do rõ ràng. Thay vào đó, ông ta lại phẫn nộ với Averell Harriman và nhóm của ông này tại Bộ Ngoại giao [Mỹ] đã xúi giục việc lật đổ Ngô Đình Diệm [mà Taylor gọi là] “thành tích gây tai họa nhất của Kennedy ở Việt Nam” (tr. 589) và với những người có trách nhiệm trong việc rút lại sự ủng hộ của Mỹ [cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu] năm 1975 để cho [Việt Nam] Cộng hòa phải “tử thương bởi một đồng minh lật lọng” (tr. 626) (…). Ông ta xem những cuộc đột nhập [của quân Mỹ và quân Thiệu] vào Căm-pu-chia và Lào là tích cực trong việc tạo ra thời gian để Việt Nam hóa chiến tranh và như vậy giúp chế độ Sài Gòn “thành công trong việc ổn định miền Nam Việt Nam” (tr. 606 – 607) ít ra là cho tới khi Mỹ bán đứng chế độ Sài Gòn bằng Hiệp định hòa bình Paris năm 1973, “vứt bỏ chủ quyền của Đệ nhị Cộng hòa” (tr. 612 – 613)”.
Vẫn theo giáo sư N. G. Owen, trong cuốn sách trên, Taylor cũng “đánh giá lại một vài lãnh tụ bị nhiều tiếng xấu ở miền Nam. Mặc dù thừa nhận họ có nhiều thiếu sót sai lầm, ông ta miêu tả Ngô Đình Nhu là người có nhiều ý định dân chủ (tr. 581; Taylor khẳng định Nhu bị ghét vì ông duy trì an ninh có hiệu quả và chống lại sự giám hộ của Mỹ, tr. 577), Nguyễn Cao Kỳ tỏ ra “không có tỳ vết tham nhũng nào” (tr. 593) và Nguyễn Văn Thiệu – được [Taylor] ca tụng một cách yếu ớt hơn - được biết là không “tham nhũng thái quá hay lạm quyền quá đáng” (tr. 607) v.v và v.v…(8)
Trong bài viết này, chúng tôi không có ý định kể ra tất cả những sai lầm trong cuốn sách và các bài viết của KWT, mà chỉ muốn tìm hiểu cái mà ông ta gọi là “một cái nhìn mới về lịch sử Việt Nam” gồm hai điểm sau đây:
1. Việt Nam không phải là một dân tộc thống nhất sống trên một lãnh thổ thống nhất
Đất nước Việt Nam trải dài trên 15 vĩ độ, từ đỉnh Lũng Cú (23°22’59 Bắc đến mũi Cà Mau (8°30’ Bắc). Mặt khác, lãnh thổ Việt Nam được mở rộng dần về phía Nam. Do đó, việc hình thành những vùng miền là điều tự nhiên. Nhưng dù ở đâu và được ghi vào bản đồ Việt Nam lúc nào, các vùng miền đó đều là những bộ phận hợp thành của một Tổ quốc Việt Nam duy nhất và thống nhất.
Cường điệu một số điểm dị biệt giữa các vùng miền, KWT chia nước Việt Nam thành ít nhất 5 vùng miền: Đông Kinh (tức vùng đồng bằng sông Hồng, lấy Hà Nội làm trung tâm), Thanh Nghệ Tĩnh (gồm ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh), Thuận Quảng (gồm bốn tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng), Bình Định và Nam Bộ. Điều đáng nói là KWT buộc các vùng miền này phải thường xuyên mâu thuẫn, đối kháng với nhau, thường xuyên xung đột với nhau: “Trong những năm mà tôi đề cập, không có giai đoạn nào mà những người nói tiếng Việt không đánh lẫn nhau hoặc giao chiến với các nước láng giềng”.
Ứng dụng thuyết “xung đột vùng miền”, KWT xem cuộc tranh chấp giữa nhà Mạc và nhà Lê trung hưng trong thế kỷ XVI như cuộc xung đột giữa Đông Kinh với Thanh Nghệ: “Đông Kinh đã trung thành sâu sắc với gia đình họ Mạc trong thế kỷ XVI và Đông Kinh đã cứng rắn chống lại cuộc chinh phục của đoàn quân Thanh Nghệ vào cuối thế kỷ này”. KWT nhận định: “Cuộc xung đột vùng giữa Đông Kinh và Thanh Nghệ là đặc điểm nổi bật trong hình dung của chúng ta về một kinh nghiệm lịch sử Việt Nam… Bắt đầu với Hồ Quý Ly và sau đó với Lê Lợi, Thanh Nghệ trở thành khu vực của các vị vua và lãnh chúa có khao khát thống trị Đông Kinh”.
Tương tự như vậy, KWT giải thích sự phân tranh giữa họ Trịnh và họ Nguyễn là cuộc xung đột giữa Đông Kinh và Thuận Quảng , cuộc khởi nghĩa Tây Sơn là “sự phản ứng của vùng Bình Định trước những yêu sách của các nhà cai trị Thuận Quảng áp đặt lên vùng này”. Vùng Bình Định “sản sinh ra một nhân vật, Nguyễn Huệ, người dẫn quân từ lãnh thổ này sang lãnh thổ khác và đã cố tìm cách thống nhất mọi khu vực của người Việt dưới uy quyền của ông”. Sau khi Nguyễn Huệ qua đời, “Nguyễn Ánh cuối cùng đã xây dựng nền tảng quyền lực tại Sài Gòn ở Nam Bộ và từ đây đã đi chinh phục toàn bộ các vùng ở miền Bắc nơi người Việt sinh sống, lập nên một vương quốc vào đầu thế kỷ XIX mà trước đó chưa bao giờ tồn tại”.
Không chỉ người đọc Việt Nam cảm thấy chối tai trước những từ “xung đột”, “chính phục” cứ bị lặp đi lặp lại … mà người đọc nước ngoài cũng thấy không chịu được. Chẳng hạn giáo sư N. G. Owen (đã nói ở trên) nhận xét: trong cuốn A History of the Vietnamese, “các tiêu đề lớn nhỏ - về “Chiến tranh 70 năm”, “Chiến tranh 50 năm”, “Chiến tranh 30 năm” – gợi lên ý nghĩ về các cuộc xung đột nồi da nấu thịt đẫm máu và liên miên, nhưng không nói đến nhiều cuộc chiến tranh với nước ngoài và vô số những cuộc nổi dậy. Kết quả là một bức tranh chắp vá về mặt chính trị và văn hóa”(9).
Thuyết “xung đột vùng miền” của KWT xây dựng trên những kiến thức và quan điểm sai lầm, nên không khó để bác bỏ. Thật ra, những cuộc nội chiến nói trên xảy ra giữa hai thế lực chính trị - quân sự có quyền lợi mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn, chiến tranh Nam triều – Bắc triều nổ ra giữa nhà Mạc (lật đổ nhà Lê) và nhà Lê trung hưng (tìm cách lập lại ngai vàng của dòng họ mình); Trịnh – Nguyễn phân tranh xảy ra giữa con cháu của Nguyễn Kim (người đầu tiên khởi xướng việc trung hưng nhà Lê) và con cháu của Trịnh Kiểm (người bị xem là đã giết con trai của Nguyễn Kim) v.v… Những thế lực này hoàn toàn không đại diện cho quyền lợi của một vùng miền nào và chưa hẳn đã nhận được sự ủng hộ của người dân trong vùng miền đó. Thái độ chính trị của một người không phụ thuộc vào việc người đó ở một vùng miền nào. Không hiếm những người thay đổi thái độ chính trị như cha con Nguyễn Thiến. Thiến làm thượng thư nhà Mạc, hai con là Quyện và Miễn làm tướng của nhà Mạc, nhiều lần cầm quân đánh nhau với nhà Lê. Do mâu thuẫn trong nội bộ nhà Mạc, ba cha con dẫn quân bản bộ về hàng nhà Lê (1550). Năm sau, Quyện theo quân nhà Lê ra đánh nhà Mạc. Năm 1557, sau khi cha qua đời, Quyện và Miễn bỏ nhà Lê, trở về với nhà Mạc, lập nhiều chiến công. Năm 1592, Quyện và Miễn bị nhà Lê bắt, sau bị giết. Thử hỏi KWT xếp ba cha con của Thiến vào vùng miền nào?
Thuyết “xung đột vùng miền” trở nên nguy hiểm khi KWT biến những cuộc chiến tranh xâm lược của nước ngoài thành nội chiến, phủ nhận các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chẳng hạn, nhà Minh xâm lược Việt Nam đầu thế kỷ XV. KWT quả quyết: “Có nhiều bằng chứng cho thấy đa số sĩ phu ở Đông Kinh sẵn sàng chấp nhận sự cai trị của quân Minh và rằng nhiều thế gia vọng tộc ở khu vực này (…) đã trung thành phục vụ quân Minh (…). Hiệu lực sự cai trị của nhà Minh đã không thể xảy ra nếu không có sự chấp nhận và tham gia với mức độ lớn của người địa phương”. Theo KWT, “người Đông Kinh nhìn Lê Lợi như một kẻ nổi loạn nhà quê”. “Không khó để đọc cái gọi là phong trào giải phóng dân tộc của Lê Lợi như là cuộc chinh phục của Thanh Nghệ đối với Đông Kinh, với việc nhiều nhân vật Đông Kinh xem người Minh như thế lực bảo vệ [Đông Kinh] chống sự quê kệch của các tỉnh phía Nam”.
Tương tự như thế, vào giữa thế kỷ XIX, “khi vấn đề bảo hộ của Pháp xuất hiện, giới tinh hoa Thuận Quảng ủng hộ việc hòa hoãn và hợp tác [với thực dân Pháp] để cứu chế độ quân chủ, trong khi các lãnh đạo Thanh Nghệ ủng hộ cuộc kháng chiến [chống Pháp]… Chính sự chủ động của người Thanh Nghệ đã dẫn đến việc đưa hoàng gia thoát khỏi Huế và kêu gọi “Cần vương” năm 1885… trong lúc các lãnh đạo Thuận Quảng nhanh chóng hòa hoãn với Pháp chống lại các đối thủ Thanh Nghệ của họ”.
Trong khi cường điệu sự xung đột vùng miền (không có thật) giữa Đông Kinh - Thanh Nghệ hay giữa Thanh Nghệ - Thuận Quảng, KWT cố tình che giấu tội ác xâm lược của nhà Minh hay của thực dân Pháp.
Thuyết “xung đột vùng miền” không dừng lại ở đó. Trong bài điểm sách A History of the Vietnamese, Liam C. Kelley (Đại học Hawaii, Mỹ) viết: “Qua cuốn sách dài hơi này, Taylor nhiều lần lôi kéo sự chú ý của người đọc vào những kích thước vùng miền của lịch sử Việt Nam. Đó là những căng thẳng giữa Thanh Hoá và Thăng Long trong những thế kỷ trước hay giữa Sài Gòn và Hà Nội trong thời gian gần đây hơn, chủ nghĩa địa phương đã là một nét đặc trưng lâu dài trong trải nghiệm lịch sử của những người nói tiếng Việt…”(10).
Lời bình luận của L. C. Kelley để lộ thâm ý của KWT: ông ta muốn dẫn dắt người đọc đi đến kết luận: chiến tranh trong hai thập kỷ qua tại Việt Nam chỉ là “xung đột vùng miền” giữa miền Bắc và miền Nam; miền Bắc kháng chiến chống Mỹ, còn miền Nam là đồng minh của Mỹ; chứ không phải là chiến tranh của Mỹ xâm lược Việt Nam!
2. Việt Nam không có lịch sử và văn hóa thống nhất, phát triển liên tục
Theo KWT, “những người quyết tâm cai trị toàn bộ các dân tộc Việt sẽ nhấn mạnh về một lịch sử và văn hóa Việt Nam đơn nhất, với một cội nguồn duy nhất và một xung lực duy nhất xuyên suốt thời gian và không gian. Nhưng những giấc mơ về tính độc nhất này là sự thể hiện niềm tin chính trị, chứ không phải là điều nghiễm nhiên”.
Ngược lại, KWT chủ trương “chia lịch sử và văn hóa Việt Nam thành từng khu vực” và cho rằng “lịch sử của mỗi vùng cũng đứt đoạn”, cũng “mang tính chất giai đoạn, chứ không tiến triển liên tục”.
KWT không thừa nhận có một dân tộc Việt Nam thống nhất và tồn tại liên tục hằng ngàn năm nay. Do đó, KWT dùng khái niệm “những người nói tiếng Việt” (people who speak Vietnamese) cùng sống trên mảnh đất hình chữ S. Những người nói tiếng Việt không nhất thiết hợp thành một dân tộc Việt duy nhất, cũng như những người nói tiếng Anh ở Mỹ, Anh, Canada, Australia, New Zealand… thuộc nhiều dân tộc khác nhau.
Khái niệm “những người nói tiếng Việt” gợi cho chúng ta nhớ lại mồ ma Thierry d’Argenlieu. Trong thông tư số 215/CP.Cab ngày 15/1/1947, viên cao ủy Pháp tại Đông Dương này cấm dùng từ “Việt Nam” trong các tài liệu chính thức, trên báo chí cũng như khi trò chuyện; thay vào đó, ông ta bắt dùng cụm từ “ba xứ nói tiếng An-nam” (trois pays de langue annamite – ba xứ là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ)(11).
KWT không thể chối bỏ một thực tế hiển nhiên là người Việt từ đỉnh Lũng Cú đến mũi Cà Mau “đều nói một ngôn ngữ mà tất cả đều hiểu”, nhưng vẫn gượng gạo đưa ra nhận xét: “Cái “ngôn ngữ chung” đó là một lớp âm thanh, từ vựng và cú pháp tương đối hời hợt [?!] mà ẩn bên dưới đó là những lớp sâu sắc hơn của những mô hình ngôn ngữ vùng”, “bên dưới lớp âm thanh, ngữ âm, lời nói chung, hay bất kỳ cách tưởng tưởng nào của chúng ta về hiện tượng ngôn ngữ con người, là những con người khác biệt mà cái nhìn của họ về bản thân và người khác dựa vào địa hình vùng họ sống và dựa vào những trao đổi văn hóa có được tại vùng đó”. Không chĩ khác biệt trong không gian, người Việt còn khác biệt trong thờii gian : “Người Việt thế kỷ 13, 15, 17 không giống người Việt thế kỷ 20” ! Như thế, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm khác với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp !
Vì Việt Nam, theo KWT, không phải là một dân tộc thống nhất và phát triển liên tục nên ông ta phủ nhận việc Việt Nam có một lịch sử chung: “Ý tưởng về một “lịch sử chung” là một điều được tưởng tượng và tranh luận, chứ không phải là một vấn đề hiển nhiên; nó không phải là một di sản rõ rệt, mà đúng hơn, nó được nghĩ ra, dạy dỗ và học từ thế hệ này sang thế hệ khác: nó là vấn đề truyền thụ. Một “lịch sử chung của người Việt” là chuyện ý thức hệ và chính trị, không phải là học thuật (…). Việc xây dựng một “lịch sử chung” nằm trong địa hạt thần thoại”.
KWT cũng phủ nhận việc Việt Nam có một bản sắc văn hóa dân tộc. Trước đây, các nhà viết sử thường nhận định “người Việt Nam trở thành một loại người riêng biệt là nhờ một phản ứng chung hay thống nhất trước mối đe dọa can thiệp của nước ngoài”. KWT bác bỏ điều đó, cho đó “đơn giản là sự kiêu ngạo của cách viết sử [theo khuynh hướng] dân tộc chủ nghĩa đã biến “tinh thần chống ngoại xâm” thành tố chất vĩnh cửu trong “bản sắc Việt Nam”.
Song song với việc phủ nhận truyền thống “đánh giặc, giữ nước” của dân tộc Việt Nam, KWT công khai bảo vệ chiến tranh xâm lược mà Mỹ đã tiến hành nhiều nơi trên thế giới (trong đó có Việt Nam).
Trong khi “đối với một số học giả đồng nghiệp, lên án Hoa Kỳ là một đế quốc, bạo quyền phát-xít rất hợp thời trang”, thì KWT “không còn cảm thấy bị đe dọa bởi những khẳng định vô căn cứ như vậy”. KWT “chấp nhận tiền đề rằng Hoa Kỳ có một vai trò chính đáng, thậm chí không thể tránh được, trong thế giới ngày nay”, “tin rằng quyền lực toàn cầu trong tay của Hòa Kỳ nên được coi như là một trách nhiệm, chứ không phải là một điều mà chúng ta cần phải xin lỗi”. Áp dụng tiền đề đó vào trường hợp Việt Nam, KWT tuyên bố: “Tôi không thể chấp nhận định lý rằng Hoa Kỳ không có lý do chính đáng để được can thiệp vào Việt Nam”. Theo KWT, “yếu tố dẫn đến thất bại của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam [tức chế độ Diệm – Thiệu] không phải là thiếu ý chí và quyết tâm, mà là một loạt các quyết định sai lầm trong chính quyền Kennedy và Johnson đã kéo dài cuộc chiến đưa đến bế tắc, làm cạn kiệt sự kiên nhẫn của người dân Mỹ”. Tóm lại, “bi kịch của Việt Nam không phải là nước Mỹ đã can thiệp [vào Việt Nam] khi họ không nên can thiệp, mà đúng hơn là sự can thiệp đã quá vụng về”.
KWT thường bác bỏ quan điểm sử học của Việt Nam (trước kia cũng như hiện nay), cho đó là sử học dân tộc chủ nghĩa, sử học chính trị hóa. Thực ra, KWT dưới lớp áo “sử gia”, đã sử dụng sử học để phục vụ những quan điểm chính trị sai trái, xuyên tạc lịch sử Việt Nam, biện minh cho chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
Thế nhưng, trong diễn văn ngày 24/3/2015 nói trên, Nguyên Ngọc thay mặt cho Quỹ văn hóa PCT, ca ngợi KWT là “một người thật sự yêu đất nước này, muốn hiểu nó tận cùng như hiểu chính mình, để cho đất nước anh hùng mà khổ đau này sống thật đàng hoàng trong thế giới xiết bao khó nhọc ngày nay” và “cảm ơn KWT vì tình yêu chân chính và nỗ lực trằn trọc của ông cho khoa học lịch sử Việt Nam, cho Việt Nam”(12).
Nguyên Ngọc có biết ai là những người đã gây ra khổ đau cho đất nước này không?
Thật là mỉa mai khi Nguyên Ngọc tâng bốc KWT là “người thật sự yêu đất nước này”. Phải chăng KWT yêu theo kiểu Nguyên Ngọc đang yêu?
Cụ Phan Châu Trinh là chí sĩ hy sinh trọn đời mình cho dân cho nước. Không ai có thể lợi dụng tên tuổi cụ để làm chuyện phản quốc !
Nguyễn Đình Vân Tiên
_____________________
Chú thích:
1, 12, www.quyphanchautrinh.org.
2, Đoạn tự bạch này nằm trong bài “Tôi bắt đầu dạy về chiến tranh Việt Nam như thế nào” (How I Began to Teach about the Vietnam War) đăng trên Michigan Quarterly Review số mùa thu 2004. Chúng tôi sử dụng bản dịch của Thái Anh trênwww.diendannguoidanvietnam.com nhưng xin phép sửa đổi chữ dịch chưa sát với nguyên văn (lost, legitimate…)
3, Robert S. McNamara, In Retrospect – The Tragedy and Lessons of Vietnam (Hồi tưởng quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học ở Việt Nam), NXB Times Books, New York, 1995, tr. xvi.
4, www.reagan.utexas.edu.
5, Bài in trong sách Guerre et Paix en Asie du Sud-Est (Chiến tranh và hòa bình ở Đông Nam Á) do NXB L’ Harmattan ấn hành, Paris, 1998. Chúng tôi sử dụng bản dịch của Lê Quỳnh đăng trên tạp chí Xưa và Nay, số 269 và 270, tháng 10/2006.
6, www.bbc.co.uk/vietnamese.
7, Cambridge University Press ấn hành, New York, 2013.
8, 9, http://asiapacific.anu.edu.au.
10, Journal of Vietnamese Studies, vol. 9 (1), 1/1/2014.
11, Philippe Devillers, Paris – Saigon – Hanoi, les archives de la guerre 1944 – 1947(Paris – Sài Gòn – Hà Nội, hồ sơ lưu trữ chiến tranh 1944 – 1947), NXB Gallimard/Julliard, Paris, 1988, tr. 336.