Con người có thói quen là hễ nói gì là tin chắc như vậy mà không chịu tư duy quán chiếu để truy tìm xem lời nói đó là phương tiện hay cứu cánh. Trong Phật giáo, kinh điển dạy trong ta có sáu căn, nhưng thật ra có sáu căn như thế không? Để giải thích, Đức Phật dạy rằng: sáu căn vốn không phải sáu mà nói sáu. Lẽ ra phải nói là một, nhưng một không phải một theo nghĩa thông thường nên Thế Tôn mới tùy thuận chúng sinh mà nói sáu vậy thôi. Thí dụ nếu sáu là sáu thì tại sao khi mắt nhìn thấy đồ ăn thì tay liền gắp và miệng chảy nước miếng? Còn nói là một thì tại sao tai nghe nhạc, miệng hát và tay chân nhảy múa theo hoặc nói là một thì tại sao con mắt không nghe, lỗ tai không thấy?
Vậy căn không phải một cũng không phải sáu mà cũng chính là một và sáu. Đấy tức là sắc tức là không và sắc chẳng khác không nghĩa là bất tức bất ly vậy. Để giải thích Phật lấy thí dụ rằng tâm tánh con người cũng như hư không, bao la vô cùng vô tận, không có gì là một hay là sáu, nhưng khi hư không chứa trong các bình, lu, cốc, lọ khác nhau mà hư không thành ra sai khác. Nếu bây giờ lấy bỏ hết các đồ dụng kia đi thì hư không vẫn là một. Do đó, hư không là một mà cũng là nhiều vô tận. Tâm tánh nương theo sáu căn cũng như hư không ở trong các đồ dùng vuông, tròn, cao, thấp vốn không có gì là sáu hay là một.
Sáu căn vốn là chơn tâm viên minh thanh tịnh nhiệm mầu, nhưng cũng bởi do không giác ngộ được cái tâm tánh nhiệm mầu này mà nhận cái minh làm giác nên từ đó mới “có minh” “có sở”. Một khi năng sở được thành hình thì sự phân biệt đối đãi làm sở minh ảnh hưởng đến năng minh và năng minh bị giới hạn trong phạm vi sở minh.
Một khi có hai thứ sáng và tối hiển bày lẫn nhau thì cái tánh giác diệu minh tác dụng vào bản thể tâm tánh nhiệm mầu để tạo ra cái thấy (năng minh). Cái thấy phải có đối tượng để thấy tức là sắc (sở minh) và sau cùng cơ quan tiếp thu những hình tướng, màu sắc, cảnh giới bên ngoài thì gọi là nhãn căn. Nhãn căn là do tứ đại thanh tịnh hợp thành vì thế nhãn căn không phải là nguyên nhân gây ra tội lỗi, phiền não, khổ đau. Bằng chứng là Đức Phật, các vị trong hàng Thanh Văn, Duyên Giác mặc dù đã tu chứng mà nhãn căn của họ vẫn giống y như tất cả chúng sinh, không thay đổi.
Cái khác nhau duy nhất giữa họ và chúng sinh là họ luôn làm chủ nhãn căn của mình, không để cho nó tha hồ chạy theo sắc trần làm tâm bị mê hoặc mà làm nô lệ cho vô minh phiền não. Nhãn căn là dùng văn tự đối đãi của con người để nói vậy thôi, chớ đúng ra chả có cái gì là thật nhãn căn cả bởi vì nhãn căn là do sự cấu thành của những tế bào, là thịt. Mà đã là thịt thì tại sao chỉ có thịt mắt mới thấy còn thịt đùi, thịt cổ tay lại không thấy? Vì thế Phật tạm gọi nó hình dáng tròn tròn giống như trái nho.
Năm căn còn lại thì cũng thế. Đối với hai thứ động tĩnh tức là thanh trần thì có nhĩ căn. Đối với hai thứ thông và bít tức là hương trần thì có tỷ căn. Đối với hai thứ lạt và vị tức là vị trần thì có thiệt căn. Đối với hai thứ hợp và ly tức là xúc trần thì có thân căn và sau cùng đối với hai thứ sinh và diệt tức là pháp trần thì có ý căn.
Nói tóm lại hình dáng nhãn căn thì tròn giống như trái nho, hình dáng nhĩ căn giống như lá sen non, hình dáng của tỷ căn trông giống như hai ngón tay duỗi xuống, hình dáng thiệt căn trông như nữa vành trăng, hình dáng thân căn giống như cái trống cơm và hình dáng ý căn gống như chất đậu hủ non. Vì lục căn là do tứ đại thanh tịnh hợp thành nên chúng không phải là nguyên nhân của ưu bi, tội lỗi, phiền não, đau thương.
Một ngày kia, có một thiền sư đang tọa thiền trên một tảng đá lớn, thình lình có một người nhảy tới, túm lấy vai sư nói lớn :
- Thầy xem tôi có xấu không? Tôi rất khổ vì người đời nói tôi xấu?
Đây là một người đàn ông chân tay khẳng khiu, da nhăn nheo tóc thô, mắt to mắt nhỏ, tai nhọn như tai dơi, răng khặp khểnh chìa ra ngoài, môi thâm và trề ra giống như quỷ Dạ Xoa. Nghe hỏi vậy, thiền sư hiền từ đáp:
- Có những người xấu gấp ngàn vạn lần ông. Ông chẳng có chi gọi là xấu cả.
Nghe nói thế ông xấu kia vặn hỏi:
- Thầy thử nói xem những người kia xấu như thế nào?
Sư chậm rãi đáp :
- Những kẻ có tiền của nhưng không phụng dưỡng cha mẹ. Những kẻ tham tài phụ khó. Những kẻ giàu có tiền rừng bạc biển nhưng không hề bỏ một xu cứu giúp người nghèo khó. Những kẻ khích bác người đạo hạnh, khinh chê Tam Bảo, đố kỵ người xả thân cứu đời, vô tài nhưng có máu ghen tị. Những kẻ hay đâm thọc, ngồi lê đôi mách, thêu dệt, bịa đặt tin để gây chia rẽ. Những kẻ chuyên loan truyền tin xấu chê bai dè bỉu thành quả của người khác. Những kẻ ăn chơi đàng điếm, trụy lạc làm băng hoại xã hội, buôn bán, chuyển vận xì ke ma túy làm tiêu ma thế hệ trẻ. Những kẻ lười biếng an bám xã hội, sống trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Tất cả những người này mới xấu, chứ ông có gì gọi là xấu đâu!
Nghe nói như vậy ông xấu đó lạy tạ sư rồi lui ra. Khi bóng ông vừa khuất thì một người hung hăng bước vào. Ông này ai nhìn diện mạo đều khiếp vía. Bởi vì ông ta cao lớn dềnh dàng, mặt sơn trắng sơn đen vằn vện như những tay đâm thuê chém mướn. Tóc ông ta dựng đứng và tua tủa như những chiếc đinh nhọn. Hai tai ông ta đeo lủng lẳng hai chiếc còng sắt số tám. Lỗ mũi ông ta móc một chiếc nanh heo rừng. Mắt ông ta đeo một miếng da màu đen giống như những tên cướp biển chột mắt. Cổ ông ta xâm hình con cú. Hai vai ông ta quàng chéo hai vòng đạn đại liên như những tên cướp hung bạo.
Ông ta cởi trần, ngực xâm những con thủy quái gớm nhiếc. Chưa hết, hai cánh tay ông còn xâm hình hai con rắn hổ mang mà hai bàn tay là hai cái miệng của con rắn cho nên khi ông đưa tay ra giống như hai con rắn muốn mổ người ta. Ông ta không mặc quần mà quấn một chiếc khố bằng da beo. Hai bên đùi xâm hình hai cô gái lõa thể trông giống như yêu tinh, thần nữ. Tay trái ông cầm một chiếc móc sắc, tay phải cầm một quả lựu đạn đã mở chốt sẳn. Giọng ông khàn khàn giống như giọng Ngưu Ma Vương khiến đàn bà, con nít gặp ông ngã ra bất tỉnh. Ông bước tới trước mặt sư, chìa cái móc sắt và quả lựu đạn ra rồi hỏi:
- Thầy có thấy tôi đáng sợ không?
Nghe ông hỏi, sư vẫn điềm nhiên đáp:
- Ông chẳng có chi đáng sợ cả. Có ngàn vạn người khác còn đáng sợ hơn ông.
Quá đổi ngạc nhiên, ông vặn hỏi :
- Những người đó có gì mà đáng sợ hơn tôi? Thầy thử nói xem.
Thiền sư vẫn ung dung đáp lại :
- Những kẻ mặt mũi đẹp đẽ, ăn mặt sang trọng, nói năng ngọt ngào nhưng trong lòng chứa đầy âm mưu thủ đoạn lường gạt hại người, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ hành tà đạo, tôn thờ thần linh, ma quỷ nhưng nói ra toàn chuyện đạo đức giả hình, biến người nghe thành những con cừu non khờ dại, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ quản trị những công ty lớn, miệng nói trung thành, tín nhiệm nhưng gian tham, lường gạt khách hàng khiến cả trăm ngàn người tán gia bại sản, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ âm mưu thống trị nhân loại nhưng nói ra toàn chuyện nhân nghĩa, đạo đức để lừa mị, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ đứng sau lưng những thế lực đen tối, buôn bán nô lệ, đàn bà, trẻ em, đứng đầu những tổ chức trùm ma túy kết thành bè đảng Mafia, không chuyện tàn ác nào mà không dám làm, những kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ dùng ngòi bút, diễn đàn như gươm súng để đàn áp người cô thế, đầu độc dư luận, bóp méo sự thật, phỉ báng, vu oan giá họa người lương thiện như thế mới đáng sợ. Còn như ông thì chẳng có gì đáng sợ cả.
Ông đáng sợ sau khi nghe nhà sư nói như thế chán nản lui ra. Nhưng khi ông vừa bước xuống thềm đá thì một cô gái tiến lên, tới trước mặt sư, kiêu hãnh hỏi:
Tôi là Hoa Hậu Thế Giới, Sư có thấy tôi đẹp không?
Sư chậm rãi đáp :
- Cô chẳng có chi là đẹp cả. Có cả ngàn vạn người còn đẹp hơn cô rất nhiều.
Cô gái nghe nói, bực bội, mở tròn đôi mắt hỏi lại sư:
- Hoa hậu thế giới là người đẹp nhất của thế giới mà thầy nói còn rất nhiều người đẹp hơn tôi, vậy những người đẹp đó hơn tôi ở chỗ nào?
Sư hiền từ đáp :
- Giữ gìn trang nghiêm “giới hạnh” là “thân đẹp”. Ăn ở hiền hòa, thủy chung là “nết đẹp”. Thấy người ta ngã mà nâng lên, đó là “cử chỉ đẹp”. Phụng dưỡng cha mẹ già, chu cấp người cô quả cô độc, tôn quý các bậc hiền thánh, cúng dường chư tăng ni đó là “tâm hồn đẹp”. Thấy người ta lâm nguy, sợ hãi mà nói lời an ủi giúp đở, đó là “ngôn ngữ đẹp”. Không một tà niệm nảy sinh, đó là “ý đẹp”. Thấy người ta u tối, không hiểu biết mà khai mở trí tuệ, cho học hành chữ nghĩa, đó là “trí tuệ đẹp”. Phá vỡ màn vô minh, hướng dẫn chúng sinh vào con đường an vui giải thoát, đó là cái đẹp mà trời Đế Thích phải trải hoa tán thán. Còn cái đẹp của cô là cái đẹp của sự ham muốn, chiếm đoạt, xoay vần trong vòng sinh tử luân hồi, ngầm chứa khổ đau, sớm nở tối tàn không có chi đáng tán dương cả.
*
* *
Chỉ ra hư vọng không thật. Phát minh chân tánh thì viên thoát
A Nan! Sáu căn của ông bị hạn chế là bởi “tánh giác minh” bị trở thành “minh giác”. Do vậy, tánh giác minh mất phẩm chất trong sáng bản nhiên, tác dụng với các vọng mà phát ra hay biết. Hiện nay ông rời tối, rời sáng thì không có cái thấy. Rời động và rời tĩnh thì không có tánh nghe. Rời thông và bít thì không có tánh ngửi. Không vị không nhạt thì không có cái nếm. Không hợp, không ly thì không có tánh xúc. Không diệt không sanh thì cái nhận thức không có điều kiện sanh.
Động, tĩnh, hợp, ly, nhạt, vị, thông, bít, sanh, diệt, tối, sáng đó là 12 tướng hữu vi. Ông đừng chạy theo sự chi phối, lôi cuốn của chúng. Tùy nghị lực của ông, nhận xét tìm ưu thế của một căn, chặt nhổ gốc rễ vô minh phiền não, xoay tánh giác minh trở về vị trí bản nguyên minh diệu của nó. Phát huy thế mạnh trừ khử mê mờ, làm chủ được một căn thì năm căn còn lại sẽ được thanh tịnh giải thoát hết.
Đến lúc không cần có tiền trần mà tri kiến vẫn phát khởi, bấy giờ tri kiến giác minh không lệ thuộc nơi căn, chỉ gá vào căn mà phát ra nhận thức trong sáng. Do đó sáu căn bấy giờ có thể dùng thay lẫn nhau mà không có gì trở ngại.
A Nan! Ông có biết chăng! Trong hội này ông A Na Luật Đà không có mắt mà vẫn thấy. Thần nữ Căn Già không có mũi mà nhận biết hương. Ông Kiều Phạm Ba Đề lưỡi dị tướng (lưỡi trâu) mà biết vị.
A Nan! Nếu các căn của ông đều được giải thoát thì tánh giác tự phát ra. Chừng đó, phù trần căn và hiện tượng vạn hữu thế gian đối với ông cũng như băng giá gặp nước sôi. Sự nhận thức của ông bấy giờ trở thành Vô thượng Chánh Biến Tri Giác.
Thế nào là tánh giác minh trở thành minh giác?
Tánh giác minh là tánh thanh tịnh bản nhiên, châu biến khắp mười phương thế giới, là tánh khách quan, không phải của riêng người nào. Nhưng cái tánh giác minh này trở nên bị hạn chế, giới hạn công năng của nó khi nó tác động vào con người mà trở thành ra minh giác. Do đó minh giác là cái riêng của mình, của ta. Vì thế khi tánh giác minh tác dụng vào ông A Nan thì nó trở thành cái riêng của ông A Nan tức là minh giác. Một khi trở thành ra cái riêng của ông A Nan thì A Nan bây giờ trở thành năng phân biệt tức là năng minh và vạn pháp trở thành đối tượng sở phân biệt tức là sở minh. Thí dụ nhãn căn là năng phân biệt và nhà cửa, xe cộ là sở phân biệt. Nhĩ căn là năng phân biệt và tiếng nói, giọng cười, âm thanh là sở phân biệt.
Cái lưỡi là năng phân biệt còn mặn, nhạt, chua, cay là sở phân biệt. Nói cách khác bản tâm vốn thanh tịnh, thường hằng và không sinh không diệt, nhưng lục căn duyên theo trần cảnh bên ngoài mà phát sinh ra vọng tưởng hay, biết. Một khi vọng tưởng phát khởi thì tham-sân-si nương theo vọng tưởng mà phát sinh mạnh. Từ đó tâm con người chạy theo lục dục thất tình nên cố bám giữ những thứ mình yêu mình thích và chán ghét những thứ mình không ưa, không muốn. Cũng vì chạy theo chấp ngã, chấp pháp nên con người tạo nên hạnh nghiệp để cột chặt họ vào sinh tử trầm luân đau khổ.
Cái tuyệt vời ở đây là Đức Phật nhìn vạn hữu qua tánh bình đẳng khách quan tức là Ngài chỉ có tánh giác minh nên tất cả vạn pháp trong thế gian này như thế nào thì Đức Phật nhìn thấu suốt như thế đó, không thêm không bớt. Đó chính là pháp nhĩ như thị vậy. Ngược lại chúng sinh thì nhìn vạn pháp xuyên qua thấu kinh chủ quan nên “tánh giác minh” biến mất mà thay bằng “minh giác” nên thấy biết lầm lẫn, không thật.
Vì thế Phật mới dạy rằng :
“Tri kiến lập tri tức vô minh bổn,
Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn”.
Là người đệ tử Phật chúng sinh nên thấu hiểu rằng: Hiểu biết mà chồng lên hiểu biết là gốc rễ của vô minh. Hiểu biết rồi xóa đi hiểu biết mới tìm thấy Niết bàn. Nói cách khác người đệ tử Phật phải biết cái gì là gút để phải vướng mắt mãi mãi trong sinh tử luân hồi hoặc làm sao mở gút để không còn ràng buộc trói trăn mà bước đi thong dong tự tại.
Khi tánh giác minh trở thành minh giác thì sáu căn của con người bị hạn chế, không còn bao la vô cùng vô tận trong pháp giới bởi vì tánh giác minh bây giờ đã mất hết tánh chất trong sáng bản nhiên nên bị giới hạn trong cái hay, biết tầm thường. Vì thế sáu căn bây giờ tùy thuộc hoàn toàn vào sáu trần cho nên nếu không có sáng tối thì không có cái thấy, không có động và tĩnh thì không có tánh nghe, không mặn, không nhạt thì không có tánh nếm, không ly không hợp thì không có tánh xúc, không sinh không diệt thì không có tánh biết. Ngược lại người tu chứng thì họ không tùy thuộc vào ngoại trần, không cần sáng tối mà vẫn thấy, không cần động tĩnh mà vẫn nghe…
Họ không cần sự phân biệt đối đãi của căn và trần (năng, sở) mà vẫn có tri kiến giác minh sáng suốt thanh tịnh. Khi đã làm chủ được sáu căn nghĩa là đóng bít sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì tri kiến bây giờ trở về với tự tánh thanh tịnh bản nhiên tức là sống với cái bản lai diện mục của mình. Hằng ngày con người sống với vọng tâm, sống xa dần với chơn tánh của mình nên mới nếm mùi phiền não khổ đau. Nếu bây giờ biết hồi đầu thị ngạn, biết tránh xa những nhận thức mê lầm thì cái thế giới mình đang sống này sẽ trở thành thiên đường cực lạc. Vì thế mà kinh Duy Ma Cật có dạy rằng:”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” là vậy.
Một lần nữa kinh Lăng Nghiêm xác định rằng một khi con người làm chủ được sáu căn của mình thì tuy hiện tượng vạn hữu trong thế gian này vẫn sờ sờ ra đó, nhưng đối với họ tuy có mà vẫn như không. Nói cách khác mặc dù thế gian vẫn có trước mắt, nhưng chúng sinh đừng chấp cái có của nó, đừng để tâm tham mê luyến ái nó thì tuy là có nhưng nó vẫn như không. Đó chính là thấy mà như không thấy, nghe mà như không nghe. Lục căn đối với người giác ngộ thì tuy có mà vẫn như không. Các Ngài cũng có đầy đủ sáu căn như tất cả chúng sinh, nhưng sáu căn không còn tác động, chạy theo sáu trần. Họ nhìn vạn pháp một cách thấu triệt tận gốc của nó rằng : “Vạn pháp giai không, duyên sinh như huyễn” nên tâm không hề lưu luyến, tham ái. Đây chính là cái nhìn hiện tượng vạn pháp qua thấu kính “tri kiến vô kiến” vậy.
Khi nói sáu căn chớ thật sự không phải là sáu mà chỉ nói sáu vậy thôi. Nhưng nếu không nói là sáu thì phải chăng nó là một? Cũng không được gọi là một mà chính là một. Nói cách khác công dụng của sáu căn là một và một cũng là sáu. Vì sao? Bởi vì sáu căn phát xuất từ tánh giác minh thanh tịnh bản nhiên mà tác dụng vào sáu căn nên có công dụng khác nhau mà có tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết.
Nói cách khác sáu tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, nếm, xúc, biết đều phát xuất từ một tánh giác minh nên nói một tức là sáu, nhưng nếu con người bây giờ biết làm chủ sáu căn của mình để quay về với tự tánh thanh tịnh của mình thì sáu trở thành một nghĩa là sáu căn có thể dùng thay lẫn nhau mà không có gì ngăn ngại cả. Phù trần căn là những căn thô, hiển lộ ra hình tướng chẳng hạn như con mắt thì tròn giống như trái nho, lỗ tai thì hình dáng giống như cái là sen non… Còn những căn rất vi tế bên trong gọi là tịnh sắc căn.
Tuy rất vi tế, nhưng nó vẫn là vật chất, như luồng điện. Con người thường nghĩ rằng ý căn thuộc về tư tưởng nên nó không phải là vật chất, nhưng ở đây Phật chỉ rõ rằng ý căn thuộc về tâm nên không có hình tướng. Tuy ý căn là vô hình, nhưng vì phát xuất từ tứ đại thanh tịnh nên nó cũng có phù trần căn và tịnh sắc căn như tất cả các căn khác. Phù trần căn là khối thần kinh dùng để lưu chuyển những tín hiệu (dòng điện) từ các căn khác về hệ thần kinh trung ương.
Trong đoạn kinh trên Đức Phật dạy ông A Nan và đại chúng nếu muốn trở về với bản tâm thanh tịnh để có giải thoát giác ngộ, an vui tự tại thì chỉ cần hàng phục “một trong sáu căn” để cho nó không còn dính mắc nơi trần cảnh nghĩa là tận diệt tận gốc rễ tất cả vô minh phiền não và xoay tánh giác minh trở về với trạng thái sáng suốt, minh diệu như thủa ban đầu. Một khi trí sáng suốt hiển hiện thì chấp ngã, chấp pháp dần theo thời gian mà tan biến và sau cùng chơn tâm hiện bày, Phật tánh hiễn lộ và chúng sinh sẽ có an lạc, thanh tịnh và tự tại.
Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật có dạy rằng :
“Tất cả chúng sinh đều có đầy đủ trí tuệ của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng, chấp trước che lấp nên không nhận ra. Nếu con người có thể lìa được vọng tưởng thì Nhất thiết trí, Tự nhiên trí, Vô ngại trí hiển bày”.
Nói tóm lại, chúng sinh do căn-trần đối đãi mà có năng-sở phân biệt cho nên khi không có căn-trần thì mờ mịt, lầm lẫn. Đến khi chứng được tánh sáng suốt nghĩa là xoay cái minh giác trở thành tánh giác minh thì sáu căn trở thành tự tại và trở về với tự tánh thanh tịnh bản nhiên nên sáu căn có thể hòa nhập, không còn ngăn ngại. Đó là tại sao các vị A la hán, Duyên giác hay Bồ-tát một khi đã hoàn toàn sống với tánh giác minh của họ thì người nào cũng có thần thông tự tại, biến hóa khôn lường. Sáu căn không còn ngăn ngại nên mặc dầu nhắm mắt mà họ vẫn thấy, bịt tai mà vẫn nghe. Bằng chứng là tôn giả A Na Luật tuy mắt bị mù, nhưng nhờ có được thiên nhãn thông mà có thể thấy được tam thiên đại thiên thế giới như thấy quả quít trong bàn tay. Thần nữ Căn Già tuy không có mũi mà vẫn biết mùi hương. Ông Kiều Phạm Ba Đề đời trước chê bai những vị tăng tiếng tụng kinh như tiếng chó sủa nên sang đến đời này cái lưỡi rất to và cong lại như lưỡi trâu. Tuy thế ông vẫn biết đủ mùi vị.
*
* *
Bạch Thế Tôn! Cái tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết rời các tướng tối, sáng, động, tĩnh, thông, bít, nhạt, mặn, hợp, ly cho đến như tâm niệm tư duy rời tiền trần không có cái nào còn tự thể. Vậy thì lấy cái gì làm nhân tu hành để cầu Vô Thượng Giác rắn chắc như Kim cương vương, thường trú bất hoại như hư không ấy?
Xin Phật rủ lòng đại từ khai thị chỗ mê chấp cho tôi!
Trong đoạn nghĩa quyết định thứ nhất Phật dạy rằng:” Chúng sinh chỉ có thể nương theo cái tâm thường trụ, bất biến, không sinh diệt để làm nhân địa tu hành thì mới thấy được chơn tâm, Phật tánh của chính mình”. Trong đoạn nghĩa quyết định thứ hai Phật lại dạy: “Tánh thanh tịnh nhiệm mầu bị dính nơi sáu căn, cần phải mở cái nút ấy ra mới được giác ngộ”. Nói cách khác không thể đem sáu căn còn bị dính mắc, mê lầm mà tu chứng thành quả vô lậu được.
Và sau cùng đoạn kinh trên Phật dạy ông A Nan và đại chúng nên chọn một trong sáu căn làm nhân địa tu hành vì một căn dễ tận diệt tận gốc rễ tất cả vô minh phiền não mà thấy được chơn tâm, Phật tánh của mình. Nói cách khác chúng sinh chỉ cần chọn cho mình một căn dễ thâm nhập, công dụng dễ thành mà tiến tu để phá trừ chấp ngã, chấp pháp và đạt được tánh viên thông vô ngại thì những căn còn lại đồng thời đều được thanh tịnh.
Đến đây ông A Nan đã thấu hiểu rằng tuy các quả sở chứng có nhiều, nào là Chơn như, nào là Bồ-đề, nào là Am ma la thức, nào là Không Như Lai Tạng…nhưng tất cả đều có chung thể tánh thanh tịnh viên mãn. Thế nhưng ông lại nghi rằng nếu mà tiền trần tự nó diệt mất thì những tâm niệm của ông cũng bị diệt theo. Do vậy mà tâm ngã và tâm sở cũng không còn tức là tướng của bản ngã và tướng của hình trạng vạn hữu bên ngoài cũng tan biến. Như thế thì lấy cái gì làm nhân căn bản để tu hành mà thành giác ngộ?
Khai thị tánh nghe là thường còn
Phật bảo:
- A Nan! Nay tôi đem việc thông thường trước mắt, phương tiện tháo gở mối nghi của ông. Bấy giờ Phật bảo ông La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi hỏi ông A Nan rằng:
- A Nan ! Ông có nghe không?
- Có nghe. Ông A Nan và đại chúng đồng thưa.
Chuông hết kêu, không còn tiếng, Phật lại hỏi rằng:
- Nay ông có nghe chăng?
- Không nghe. Bạch Thế Tôn.
La Hầu La lại đánh một tiếng chuông nữa, Phật lại hỏi rằng:
- Ông có nghe chăng A Nan?
- Có nghe. Bạch Thế Tôn.
Phật hỏi:
- Thế nào thì ông có nghe? Còn thế nào thì ông không nghe?
Ông A Nan và đại chúng đồng bạch Phật rằng:
- Có tiếng chuông kêu thì chúng tôi được nghe, hồi lâu tiếng dứt, âm vang không còn thì không còn nghe nữa.
Đức Phật lại bảo ông La Hầu La đánh chuông rồi hỏi tiếp:
- Theo ông hiện nay có tiếng không?
- Có tiếng. Bạch Thế Tôn!
Hồi lâu, tiếng chuông dứt bặt, Phật lại hỏi:
- Hiện giờ có tiếng không?
- Không tiếng, Bạch Thế Tôn!
Phật bảo :
- Thế nào ông gọi là có tiếng. Còn thế nào thì ông gọi là không tiếng?
Ông A Nan và đại chúng đồng thưa:
- Có đánh chuông, tiếng chuông ngân vang thì gọi là có tiếng, giây lâu tiếng hết, âm vang không còn thì gọi là không tiếng.
Phật bảo:
- Ông A Nan và đại chúng rằng: Sao hôm nay các ông nói lộn xộn điên đảo như thế?
Đại chúng và A Nan bạch Phật :
- Vì đâu Phật bảo chúng tôi lộn xộn và điên đảo?
Bây giờ Phật mới dạy rằng:
- Tôi hỏi về cái nghe thì các ông nói là nghe! Tôi hỏi về tiếng thì các ông cũng nói là tiếng! Chỉ có cái nghe và tiếng mà các ông trả lời không nhất định, còn không phải lộn xộn điên đảo là gì?
- A Nan! Biết có, biết không là do có tiếng hay không có tiếng. Có tiếng thì nghe động, không tiếng là nghe tĩnh, chứ không phải không tiếng, tánh nghe không còn. Nếu tánh nghe không còn thì lấy cái gì để biết là không tiếng?
- A Nan! Cái tiếng đối với tánh nghe tự có sinh có diệt, nhưng không phải vì sự sinh hay diệt của tiếng mà tánh nghe của ông tùy có tùy không. Ông còn lộn lạo lầm cái tiếng mà cho là cái nghe, thảo nào chẳng mê mờ cái viên thường mà cho là đoạn diệt. Ông không nên lầm tưởng rời các thứ động, tĩnh, tối, sáng, thông, bít,… là cái nghe… không còn. Ông nên hiểu rằng: Tánh nghe không những “thường hằng” trong khi thức mà nó “thường hằng” cả trong lúc ông ngủ say sưa!
- Chúng sinh từ vô thỉ đến nay, theo sự lôi cuốn của sắc, thanh theo vọng niệm mà lưu chuyển, không hồi quang phản chiếu cái bản tánh thanh tịnh diệu thường, bỏ sót mất tánh thường chỉ buông xuôi theo dòng sinh diệt. Do vậy đời đời sống trong tạp nhiễm mà phải luân chuyển khổ đau. Nếu biết rời bỏ những cái sinh diệt, giữ lại tánh chân thường sáng suốt nhiệm mầu thì lục căn, lục trần, lục thức tiêu vong tại chỗ. Bởi vì trần là cái tướng của vọng tưởng và cấu là vọng tình phân biệt của con người. Xa lìa hai thứ trần cấu thì pháp nhãn của ông tức thì trong sáng. Cái nhận thức của ông bấy giờ là nhận thức của con người Vô Thượng Chánh Biến Tri Giác đồng với chư Phật mười phương ba đời vậy.
Tuy A Nan đã biết các sự mê lầm dựa theo lời Phật dạy, nhưng chính ông chưa trực nhận được cái mê lầm nầy. Để giải mối nghi ngờ của ông A Nan, bây giờ Phật bảo tôn giả La Hầu La đánh chuông. Khi Phật hỏi có nghe, không nghe thì ông A Nan cũng đáp có nghe, không nghe. Đến khi Phật hỏi có tiếng, không tiếng thì ông A Nan cũng đáp có tiếng, không tiếng. Chính ông A Nan và đại chúng đã lầm lẫn cái nghe với cái tiếng tức là không phân biệt rõ ràng cái gì là “căn tánh” và cái gì là “trần cảnh”. Dựa theo A Nan là khi không nghe tiếng thì gọi là không nghe, nhưng nếu suy nghĩ kỷ lại thì nếu thật không nghe thì làm sao biết được tiếng chuông đã dứt. Còn nếu tánh nghe đã diệt, không còn thì khi tiếng chuông đánh lại, làm sao còn nghe được? Nói cách khác tiếng không, không phải tánh nghe không có. Hoặc tiếng có, không phải tánh nghe mới sinh.
Do vậy nghe có tiếng, hay nghe không có tiếng là do thanh trần khi có, khi không chớ không phải tánh nghe vì thanh trần mà hóa có, hóa không. Vì vậy phải biết rằng tánh nghe thì lúc nào cũng có cho dù có tiếng hay không nên mới gọi là thường còn. Nói cách khác có tiếng thì nghe động, không tiếng thì nghe tĩnh, chớ không phải không tiếng thì tánh nghe không còn. Đây là đức tính “thường”, một trong ba tính ”thường, viên, thông” của nhĩ căn. Bằng chứng là trong khi ngủ, con người cũng có thể nghe được tiếng mặc dù ý thức không khởi. Trong chương kế tiếp, Đức Phật giới thiệu Đức Quán Thế Âm nhĩ căn viên thông để khai thị rằng trong nhĩ căn của con người có một tánh nghe, thường hằng, không sinh diệt cho dù có tiếng hay không có tiếng. Nếu chúng sinh có thể đi vào được bản tánh nghe của mình thì tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước dần dần sẽ tan biến. Từ đó chơn tâm hiển bày, Phật tánh biểu lộ.
Tiếng nghe là tướng của âm thanh tức là khi có tiếng là âm thanh sinh và không còn tiếng là âm thanh diệt. Vì thế âm thanh là tướng sinh diệt. Vì thế nếu chúng sinh dựa vào âm thanh sắc tướng mà tu tức là tu theo bản tánh sinh diệt của các tướng thì không bao giờ đạt được chơn như thanh tịnh bởi vì những gì có tướng sinh diệt đều là huyễn ảo, giả dối, không thật. Do đó nếu chúng sinh nương theo những huyễn ảo này mà tu thì họ sẽ sống với cái vọng duyên, huyễn cảnh. Cho nên trong kinh Kim Cang, Phật có dạy rằng:
“Nếu thấy ta bằng sắc tướng
Nghe ta bằng âm thanh
Người này đi đường tà
Không thấy được Như Lai”.
Nghĩa là nếu chúng sinh còn dựa theo âm thanh sắc tướng của Phật mà tu tức là chưa phá được vọng chấp, vô minh phiền não thì không bao giờ thấy được Phật tâm, Phật tánh tức là không thấy được Như Lai.
Mũi, lưỡi, thân và ý thì cũng vậy. Khi có mùi thơm thì mũi ngửi biết mùi thơm, khi có mùi xú uế thì ngửi biết mùi hôi tanh. Còn nếu không có mùi thì mũi trở về với tánh vô ký tức là tánh ngửi vẫn còn, nhưng không có mùi vị để tiếp nhận. Khi có vị mặn, nhạt thì lưỡi nếm được những vị này, nhưng nếu không có mùi vị gì thì lưỡi trở lại với tánh vô ký của nó, chớ không phải là không còn tánh nếm. Nói tóm lại ngoài những cái phân biệt thương ghét, vui mừng, buồn giận, phải quấy, hơn thua, tốt xấu của thế gian hay cái tánh thấy nghe, ngửi, nếm, xúc, biết thì vẫn còn một cái lúc nào cũng thường còn trong tất cả mọi chúng sinh. Đó chính là chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh chớ không phải mất hết như ông A Nan hoài nghi.
Từ vô thỉ, con người có thói quen chạy theo âm thanh sắc tướng tức là chạy theo cái sinh diệt mà bỏ mất tánh viên thường nên xoay vần mãi trong ô nhiễm chấp trước mà tạo hạnh nghiệp để phải chịu sinh tử khổ đau. Nay nếu biết thoát ly trần cảnh, bỏ cái phân biệt, phát huy tánh chân thường yên lặng sáng suốt thì những vọng tưởng, phân biệt mê chấp biến mất và tâm tánh thường trụ sáng suốt hiện ra để làm nhân địa tu hành đi đến đạo quả thường trụ của Phật.
Lê Sỹ Minh Tùng
Còn nữa…