A Nan! Cửa giảng đường lớn này mở ở hướng Đông, khi mặt trời lên thì có ánh sáng, giữa đêm không trăng mây mù mờ mịt tối tăm. Chỗ có các cửa thì thấy thông suốt, chỗ có tường ngăn thì thấy bít lấp. Chỗ có phân biệt được thấy cảnh sắc, chỗ trống trơn thấy hư không. Chỗ cát bụi tung lên thấy mịt mù, chỗ mưa tạnh mây tan thấy quang đãng.
A Nan! Ông đã thấy các tướng biến hóa như vậy, nay Như Lai trả các tướng ấy về nơi xuất phát của nó. A Nan! Cái sáng trả về cho mặt trời vì không có mặt trời thì không sáng. Tại sao? Vì nếu không có mặt trời thì không có sáng. Nguyên nhân cái sáng kia là do mặt trời nên trả nó về cho mặt trời. Cái tối trả về cho đêm không trăng. Thông suốt trả về cho cửa mở. Ngăn bít trả về cho tường vách. Cảnh sắc trả về cho phân biệt. Hư không trả về cho khoảng trống. Mịt mù trả về cho cát bụi. Quang đãng trả về cho mưa tạnh mây tan. Sự vật thế gian tuy nhiều, nhưng không ngoài những thứ đó. Còn cái thấy mà ông thấy tám thứ đó, ông định trả nó về đâu? Nếu ông trả về cho sáng thì lúc không có sáng lẽ ra ông không thấy được tối. Nhưng trước mắt ông, sáng và tối có sai khác mà cái thấy của ông thì không sai khác.
Các thứ có thể trả về được, nhưng đương nhiên không phải là ông. Cái không trả về được, chẳng phải là ông thì là cái gì? Vậy nên biết tâm ông vốn nhiệm mầu, thanh tịnh sáng suốt mà ông tự mê muội, bỏ mất tánh bản nhiên, đành chịu luân hồi, mãi bị chìm đắm trong biển sinh tử. Thế nên Như Lai gọi các ông là những người đáng thương xót!
Tuy Phật đã giải thích rõ ràng về bản tâm minh diệu, nhưng ông A Nan vẫn còn mờ mịt chưa thật sự khai ngộ về bản tâm nên hỏi rằng nếu tâm tính của ông có chỗ trả về thì tại sao tâm tính của Như Lai dạy lại không có chỗ trả về? Một lần nữa, ông A Nan lại dùng tâm phan duyên mới thấy có sự phân biệt này. Ông A Nan nghĩ rằng thân tứ đại đất, nước, gió, lửa của ông và của Phật đâu có khác gì nhau. Cũng mắt, tai, mũi , lưởi, thân. Cũng ăn uống nằm ngồi ngủ nghĩ giống nhau thì tại sao Như Lai lại nói tâm tính ông có chỗ trả về trong khi đó thì tâm Như Lai không có chỗ trả về. Đây là lối nhận thức của kẻ còn mê; tâm còn chấp ngã, chấp pháp và còn quay cuồng với sự tướng sinh diệt bên ngoài mà chưa thấy được bản thể thanh tịnh bất sinh bất diệt bên trong. Tuy sắc thân Phật và A Nan có giống nhau, nhưng A Nan sống với tâm phan duyên sinh diệt chạy theo vui buồn, hờn giận, hơn thua phải trái nên tâm bất tịnh.
Ngược lại Đức Phật tuy ứng thân có giống sắc thân A Nan, nhưng tâm Phật là chơn tâm thanh tịnh lúc nào cũng thường trụ Niết bàn thì cái chơn tâm này làm sao có chỗ trả về? Còn cái vui cái buồn, cái thương cái ghét, cái tốt cái xấu thì có chỗ trả về vì vui đến rồi vui đi, đâu có ở mãi với chúng ta. Như thế cái có thể trả về thì chắc chắn không phải của ta, mà không phải của ta thì làm sao gọi nó là bản tâm thanh tịnh được. Hơn nữa, thế gian hiện tượng tuy nhiều, nhưng tựu trung cũng không ngoài tám cảnh duyên là sáng, tối, thông, bít, sắc, không, trong, đục. Tám duyên này đều có thể trả về chỗ sở nhơn phát sinh ra nó, nhưng tánh thấy sáng suốt mà ông A Nan thấy được về tám tướng kia không thể trả về đâu được. Do đó những thứ có thể trả về được thì chẳng phải là chơn tâm của ông, còn tánh thấy tám duyên kia không thể trả về thì nếu nó không phải là chơn tánh của ông A Nan thì là của ai? Chơn tánh ở trong ông A Nan vốn sáng suốt thanh tịnh, nhưng vì mê muội không ngộ nên đánh mất cái sẵn có mà phải chịu sinh tử luân hồi.
Vì chơn tâm là chơn không diệu tánh nên rất khó diễn tả. Do đó Phật mới mượn tánh thấy để diễn bày cái ở và cái đi tức là “thường trụ” và “khách trần”. Nhưng tánh thấy kia còn lẫn lộn trong duyên trần mà tám thức của tâm vương lại không thuộc duyên trần nên nói tánh thấy vốn sáng suốt thanh tịnh là vậy. Tuy tánh thấy chưa phải là chơn, nhưng rất cận kề với chơn cũng như vành trăng không thể lìa mặt trăng được.
Phật Chỉ Tâm Lần Thứ Năm
Bấy giờ ông A Nan vẫn còn nghi ngờ nên bạch với Phật rằng :
- Bạch Thế Tôn! Tuy con biết tánh thấy không thể trả về, nhưng làm sao biết được đó là chơn tánh của con?
Phật bảo :
- A Nan! Nay Như Lai hỏi ông. Hiện nay ông chưa chứng quả vô lậu thanh tịnh, nhưng do nương oai thần chư Phật mà thấy được cõi sơ thiền không ngăn ngại. Còn ông A Na Luật thì thấy cõi Diêm phù đề như thấy quả quít để trên bàn tay. Chư Bồ-tát thấy được cả trăm ngàn thế giới. Mười phương chư Phật đều thấy cùng tận các cõi nước thanh tịnh như số vi trần không sót chỗ nào. Còn chúng sinh thì thấy chẳng được xa hơn gang tấc.
Này A Nan! Tôi cùng ông xem cung điện Tứ thiên vương và xem khắp các loài trong nước, trên đất, trong hư không, tuy có nhiều hình sắc tối sáng khác nhau, nhưng chúng đều là tiền trần đối tượng phân biệt. Những thứ mà ông thấy, ông nên ngay đó mà phân biệt, cái gì là mình, cái gì là vật. Nay Như Lai để cho ông lựa ra trong cái thấy, cái gì là tâm thể cái gì là vật thể.
A Nan! Cùng tột sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng cũng là vật chớ chẳng phải là ông. Cho đến cả bảy ngọn núi bằng vàng, xem xét cùng khắp, dù có thấp cao lớn nhỏ và màu sắc không đồng nhưng cũng đều là vật chớ chẳng phải ông. Lần lần quan sát mây nổi chim bay, gió động, bụi tung, cây, rừng, sông, núi, cỏ, hoa, súc vật…cho đến con người đều là vật chớ chẳng phải ông.
A Nan! Tính chất của các vật xa gần tuy có khác, nhưng cũng đều nhờ tánh thấy thanh tịnh của ông nhìn được. Các vật loại kia có sai khác mà tánh thấy của ông thì không sai khác. Cái tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt này chính thật là tánh thấy của ông.
Qua đoạn kinh trên, mặc dầu Đức Phật đã khai thị rõ ràng về tánh thấy, nhưng trong tâm ông A Nan vẫn còn chấp chặt trong cái sở văn tri giác tức là thấy nghe hay biết và chấp chặt vào kiến giải đa văn nên rất khó thông hiểu lời Phật dạy. Không phải chỉ một mình A Nan là mắc phải bịnh kiến chấp mà tất cả chúng sinh nếu chưa chứng ngộ được bản tâm thanh tịnh của chính mình mà cứ chấp chặt vào kiến văn Phật pháp thì chẳng khác nào tự mình dấn thân vào chốn bão táp phong ba, xa dần bến bờ giác ngộ vì tất cả những kiến chấp đó đều là pháp sinh diệt, không giúp ích gì trong việc tìm về với bờ cũ bến xưa để trực nhận bản lai diện mục của chính mình. Đây là sự khác nhau giữa ông A Nan và tôn giả Đại Ca Diếp khi ông đối diện Phật trong hội Linh Sơn. Khi Phật đưa cành hoa sen lên tôn giả mỉm cười vì cái tánh thấy thì không thể nói được. Biết mà không nói được nên tôn giả chỉ mỉm cười. Ở đây ông A Nan thích học rộng nghe nhiều nên tâm chất đầy văn tự Phật pháp làm che lấp tánh thấy biết chân thật của ông. Nhiều người cho rằng phải học nhiều, biết nhiều, thông kinh hiểu nghĩa mới gọi là tu. Thật ra biết nhiều thì càng dễ bị chấp chặt vào kinh điển, vào văn tự, vào phương tiện mà khó đạt được cứu cánh giải thoát giác ngộ. Người càng buông xả, càng nhẹ nhàng thanh tịnh thì càng dễ dàng quay về với tự tánh thanh tịnh bản nhiên mà chứng ngộ chơn tâm.
Dựa theo Duy thức luận thì nhãn thức là một trong tám thức tâm vương. Tánh thấy chính là tinh quang của tám thức soi vào năm trần mà rõ được cảnh. Nếu lúc nhãn căn mới chạm vào sắc trần thì gọi là “hiện lượng” tức là thể sáng suốt của tám thức. Khi niệm thứ hai khởi tâm phân biệt thì gọi là “tỷ lượng” tức là thuộc về ý thức phân biệt. Vì thế tánh thấy thanh tịnh, sáng suốt nhiệm mầu cho dù có tiếp thu trần cảnh, nhưng tánh thấy chỉ thu nhận “tánh cảnh” tức là thấy cảnh vật mà chưa có tâm phân biệt và “hiện lượng” cho nên tự tánh của cái thấy lúc nào cũng thanh tịnh vì thế tánh thấy chính là biểu hiện của chơn tâm. Vì chỉ là hiện lượng nên tánh thấy rất gần với bản chất thanh tịnh của chơn tâm hơn các hiện tượng khác cũng ví như vầng trăng chớ không điên đảo hư dối như bóng trăng soi trong đáy nước.
Các vị A la hán, chư Bồ-tát cũng như chư Phật và chúng sinh tuy có khác nhau về địa vị phàm thánh và công năng đối cảnh tuy rộng hẹp bất đồng, nhưng tất cả cũng đều đều thuộc về tánh thấy sáng suốt của hiện lượng trong tám thức. Tuy trời đất, vạn vật và hư không có nhiều hình sắc khác nhau, nhưng tánh thấy trước sau như một, không sai khác.
Ở đây chúng ta dùng tánh thấy để đơn cử công dụng phát thức của một căn. Nhưng thật ra, “tánh cảnh hiện lượng” cũng là đặc tính chung cho bốn căn còn lại là tai, mũi, lưỡi và thân. Khi một căn tác dụng thì bốn căn kia chỉ hoạt động trong một bối cảnh tùy duyên.
Phật Dạy Thêm Cái “Thấy” Là Tâm Chứ Không Phải Vật
Nếu tánh thấy là vật thì ông có thể thấy được tánh thấy của Như Lai. Nhưng sự thật thì không như vậy. Điều đó chứng minh rằng : tánh thấy không phải vật, mà là chủ thể phân biệt của chính ông. Sự thể quá rõ ràng, sao ông còn nghi ngờ cái chơn tánh của ông? Chơn tánh của ông, ông không tự nhận, vướng chấp pháp âm của Như Lai mà cầu thực chứng thì làm sao có được?
Phật trong đoạn kinh này đã giải thích rõ ràng rằng nếu vật thì bị thấy, còn tâm thì không bị thấy. Vì thế cái thấy là tâm nên không thể thấy tâm mình được. Thí dụ nếu chúng ta nhìn một trái cam để trên bàn thì trái cam là vật bị thấy mà mắt là căn để thấy. Tánh thấy chỉ tồn tại khi nào hiện lượng còn. Khi hiện lượng mất và tỷ lượng xuất hiện thì tánh thấy cũng tan biến theo có nghĩa là chơn tâm thanh tịnh không còn nữa mà được thay thế bằng tâm phân biệt chấp trước.
Con người có còn phiền não khổ đau cũng vì còn chấp tiền trần bên ngoài rồi sinh tâm phân biệt. Vì tâm phân biệt phát khởi nên có yêu, thương, giận, hờn, hơn, thua, phải quấy làm tâm họ chất đầy vọng tưởng. Con người vì đánh mất tâm thanh tịnh, tánh sáng suốt mà sống với tâm vọng tưởng mê lầm nên mãi quay cuồng lang thang lẫn thẫn trong sinh tử luân hồi. Ngược lại một người làm chủ bản tâm của mình tức là họ không chạy theo lục dục thất tình, không còn lệ thuộc vinh nhục khổ vui, khiến tâm không bị mê loạn sẽ có cuộc sống thanh thoát an vui tự tại.
Bây giờ ông A Nan nghi “Cái Thấy” Có Lớn Nhỏ.
Ông A Nan bạch Phật :
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu tánh thấy này nhất định là con chứ chẳng phải gì khác. Khi Như Lai và con xem cung điện Tứ thiên vương, mặt trời, mặt trăng, cái thấy này bao trùm cả cõi Ta bà. Khi quay về tịnh xá, con chỉ thấy khu đất già lam, đến trai đường chỉ còn thấy giới hạn của một căn phòng.
Thưa Thế Tôn! tánh thấy vốn khắp cùng một cõi, mà nay ở trong nhà chỉ thấy một gian phòng. Vậy tánh thấy lớn rút lại thành nhỏ hay do tường nhà ngăn chận làm cho đứt đoạn? Điều đó, con chưa hiểu, xin Phật từ bi chỉ dạy.
Phật dạy : Trần Cảnh có Lớn Nhỏ, Tánh ”Thấy” không Lớn Nhỏ
Phật bảo A Nan!
- Tất cả các thứ trong ngoài, lớn nhỏ trên thế gian đều thuộc về tiền trần, ông không nên nói tánh thấy có giãn ra hay rút lại. Tánh thấy vốn trùm khắp ví như hư không. Nếu đặt cái đồ vuông thì dung tích hư không vuông, còn để vật tròn thì dung lượng khoảng hư không tròn. Nếu muốn hư không, không vuông, không tròn, chỉ cần bỏ đi những cái đồ khí mảnh ấy mà không cần có ý nghĩa phải loại bỏ tướng vuông tròn của hư không. Như lời ông hỏi : Khi vào phòng cái thấy bị rút lại, hay bị vách nhà ngăn đứt? Nghĩa đó không đúng. Nếu vào phòng nhỏ, cái thấy bị rút lại, vậy khi ông ngước xem mặt trời, phải chăng tánh thấy đã giãn ra để tiếp xúc với mặt trời? Nếu vào nhà bị vách cắt đứt, khi xoi một lỗ nhìn ra sao không thấy dấu nối?
A Nan! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay lầm mình là vật, bỏ mất bổn tâm, bị vật xoay chuyển cho nên trong đó thấy lớn thấy nhỏ. Nếu chuyển được vật thì đồng với Như Lai, thân tâm tròn đầy sáng suốt, ngồi ở một chỗ mà đầu mảy lông có thể chứa trọn mười phương quốc độ.
Vật chất hay sự tướng trong thế gian có hình tướng lớn nhỏ khác nhau. Nào là dãy Hy mã lạp sơn, nào là tòa nhà cao nhất thế giới, nào là thành phố đông dân nhộn nhịp ở New york, ở Tokyo, ở Sài gòn, ở Bắc kinh. Ngày xưa máy bay nhỏ, bay gần; ngày nay máy bay Airbus 380 có thể chở trên năm sáu trăm người. Nói chung tuy thế giới hiện tượng thay đổi có hình tướng, kích thước, màu sắc không đồng cũng ví như hư không tùy theo đồ vật như ly, chén, chum, tách…mà biểu hiện theo hình thể vuông, tròn, dài, méo, sâu, cạn…nhưng thể tánh hư không thanh tịnh bản nhiên lan tỏa khắp thế giới chớ không bị hạn chế trong bất cứ một hình thức khuôn khổ nào. Vì tánh thấy là giác minh tức là cái tinh kiến nghĩa là tánh thấy lúc nào cũng ở trong phạm vi “hiện lượng” chớ không chuyển qua “tỷ lượng” và “phi lượng”. Do đó không gian vật chất tuy có lớn có nhỏ, nhưng thể tánh vốn giống nhau, là chơn không diệu tánh lan rộng khắp mười phương thế giới.
Tánh thấy là bản chất thanh tịnh của chơn tâm nên thông suốt không ngăn ngại. Nhưng cảnh giới tiền trần bên ngoài làm cho tánh thấy bị ngăn ngại. Thật vậy thể tánh chơn tâm của chúng sinh lúc nào cũng thấu suốt khắp mười phương, nhưng sở dĩ chúng ta không thấu suốt cũng bởi vì tướng tiền trần làm khởi tâm phân biệt mà có sự ngăn ngại. Vì có sự ngăn ngại nên mới có to lớn, nhỏ bé và tướng trạng khác nhau. Con người vì còn bị vô minh che lấp, bị tướng tiền trần vọng tưởng làm ngăn ngại nên không sống được với chơn tâm, Phật tánh của mình nên tánh thấy cũng bị che lấp, ngăn ngại theo vì thế mà chúng sinh không thể thấy xa hay thấy về những kiếp đời quá khứ, hiện tại hay vị lai được. Trong khi đó các vị A la hán, chư Bồ-tát hay chư Phật vì luôn sống với chơn tâm thanh tịnh tức là tánh thấy được thông suốt, không ngăn ngại nên các ngài có thể thấy suốt được tam thiên đại thiên thế giới và tất cả những đời quá khứ, hiện tại và vị lai rất rõ ràng.
Từ nơi thể tánh chơn tâm, vì vô minh vọng động mới sinh ra có hư không thế giới, chúng sinh cùng các cảnh vật nên gọi là “mê mình là vật”. Khi có cảnh vật rồi, con người cứ theo đó mà phân biệt tốt xấu, lớn nhỏ, mừng giận, thương ghét…nên nói “bị vật chuyển xoay”. Đến khi hết vô minh vọng động, quay trở về với thể tánh chơn tâm thì các cảnh vật ấy không còn nữa cũng như người thức giấc chiêm bao thì cảnh chiêm bao kia hết, nên nói “xoay chuyển vật” là vậy. Trong sách vở Tây tạng có rất nhiều câu chuyện huyền thoại về những cao tăng đã dùng thần thông bay trên đỉnh núi tuyết hay có thể làm mưa, gọi gió…làm cho đại chúng rất khâm phục.
Thật ra trong Phật giáo những hiện tượng này rất thông dụng khắp mọi nơi chớ không nhất thiết chỉ có các vị tăng Tây tạng mới đạt được. Khi chúng sinh tu hành đến chỗ minh tâm kiến tánh hay niệm Phật đến chỗ Nhất tâm bất loạn thì tâm họ hoàn toàn sáng suốt, rất thanh tịnh và cái tâm này chính chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh. Khi tâm định thì trong họ tự nhiên thần thông ứng hiện cho nên họ có thể xoay chuyển vật rất dễ dàng. Khi cần, họ nhập vào đại định tức là tâm họ đã hòa trong càn khôn vũ trụ nên họ có thể chuyển mây thành mưa hay bay bổng trên không trung rất tự tại. Thật vậy, trong thế gian vũ trụ rộng bao la vô cùng vô tận cũng không ngoài cái chơn tâm của con người cho nên khi chuyển được vật tức là có thể nắm được càn khôn vũ trụ rồi. Tuy chúng ta ngồi đây, nhưng nó đã che phủ cả thập phương thế giới. Một ý niệm cứu nhân độ thế vừa phát khởi tức thì đã vang dội trong mười phương ngay. Vì thế chơn tâm là bản thể lan tỏa vô cùng vô tận và chính là cội nguồn sinh ra tất cả.
Nếu chúng sinh đoạn trừ vô minh phiền não, không còn chấp ngã chấp pháp quay về sống với chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh, chuyển vật, làm chủ lấy mình và hòa nhập vào trong nhất nhân pháp giới. Tự nhiên họ sẽ thấy rằng vật, tâm bất nhị và chúng sinh, Phật cũng vốn không hai. Đó là tất cả là một và một là tất cả. Khi mê thì thấy có vật có tâm, có chúng sinh có Phật đến khi thức tỉnh giác ngộ thì vật tâm là một chẳng phải hai và tất cả chúng sinh đều là Phật. Khi thân tâm đã hoàn toàn sáng suốt thanh tịnh thì con người có được thần thông tự tại. Dựa theo Quảng hiệp tự tại vô ngại của Thập Huyền Duyên Khởi trong bộ Kinh Hoa Nghiêm Sớ Sao và bộ Tham Huyền Ký của ngài Hiền Thủ thì một vật tuy nhỏ như đầu mảy lông có thể chứa cả càn khôn vũ trụ mà không chật hẹp. Nói một cách khác khi con người biết quay về sống với chơn tâm thì một sợi lông hay mười phương thế giới cũng đều là chơn tâm cả. Vì đã đồng chơn tâm, cùng một thể tánh thì sẽ không còn thấy thế giới lớn hơn sợi lông, hay sợi lông nhỏ hơn thế giới cho nên đức Phật mới dạy rằng:”Trên đầu một sợi lông, có thể chứa đựng mười phương thế giới” là vậy.
Tánh Thấy Và Vật Bị Thấy Vốn Là Tâm Tánh Bồ Đề Nhiệm Mầu Sáng Suốt
Ông A Nan bạch Phật :
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu tánh thấy là tâm tánh mầu nhiệm của con thì diệu tánh đó phải ở ngay trước mắt (chấp sắc là ngã). Tánh thấy đó chắc thật là con, vậy thân tâm con hiện nay là vật gì? (chấp lìa sắc là ngã). Nhưng nay thân tâm con thật có sự phân biệt, còn tánh thấy kia không phân biệt được thân con (chấp ngã lớn sắc nhỏ, sắc ở trong ngã). Nếu thật là tâm con, khiến cho con nay thấy được, thì tánh thấy ấy thật là con, còn thân chẳng phải là con. Khác nào trước kia Như Lai hỏi : “vật có thể thấy được con chăng?” (chấp sắc lớn ngã nhỏ, ngã ở trong sắc). Cúi mong đấng đại bi chỉ bày cho kẻ chưa ngộ.
Đã bao lần Đức Phật khai thị rất rõ ràng mà ông A Nan vẫn còn mơ hồ trong nhận thức về cái tánh thấy nên mới đặt câu hỏi rằng tánh thấy là tâm tánh hay không là tâm tánh của ông. Sự mê mờ về tâm tánh cũng bởi vì A Nan nghe Phật khai thị, nếu có thể chuyển được vật, tức đồng với Như Lai, bèn phát nghi chấp vật là cái thấy. Vì nghĩ như vậy nên ông cho rằng tất cả vạn vật đều là tánh thấy sáng suốt của ông tức là vạn vật kia chính là ông rồi. Nếu cho rằng vạn vật là ông A Nan vậy thì thân tâm thật của A Nan là ai? có phải là của A Nan chăng?
Đức Phật bảo A Nan!
- Nay ông nói cái thấy ở trước mặt ông, nghĩa ấy không đúng. Nếu tánh thấy thực sự ở trước mặt ông và ông nhận thấy được thì tánh thấy này đã có chỗ nơi, chẳng phải không chỉ ra được. Vậy nay Như Lai cùng ông ngồi trong rừng Kỳ đà, xem khắp rừng suối, nhà cửa, xa đến mặt trời mặt trăng, phía trước là sông Hằng. Nay ông đang ở trước tòa sư tử của Như Lai, hãy dùng tay chỉ rõ ra các tướng loại ấy. Chỗ mát là rừng cây, chỗ sáng là mặt trời, chỗ ngăn ngại là vách, chỗ thông suốt là hư không. Như thế cho đến cỏ cây, mảy lông lớn nhỏ tuy có sai khác, nhưng đã có hình tướng thì đều chỉ ra được. Nếu nhất định có cái thấy hiện ra trước mặt ông, thì ông phải dùng tay chỉ chính xác cái nào là cái thấy. A Nan! Ông nên biết, nếu hư không là cái thấy, mà đã thành cái thấy rồi thì cái gì là hư không? Nếu vật là cái thấy, đã thành cái thấy rồi thì cái gì là vật? Ông hãy chín chắn lựa chọn trong muôn vàn hiện tượng, tách tánh thấy nhiệm mầu thanh tịnh ấy ra và chỉ cho Như Lai xem cụ thể rõ ràng, như các vật mà không lầm lộn.
A Nan thưa :
- Bạch Thế Tôn! Nay con ở trong giảng đường nhìn ra xa thấy sông Hằng, trên thấy mặt trời mặt trăng. Cái mà tay chỉ ra được và mắt thấy được, đều là vật chớ không có cái nào là tánh thấy.
Bạch Thế Tôn! Đúng như lời Ngài vừa dạy, chẳng những hàng Thanh văn, sơ học chúng tôi, cho dù hàng Bồ-tát cũng không thể nào trước các hiện tượng mà chỉ ra được cái thấy khi lìa tất cả vật mà có tự tánh riêng.
Phật bảo : Đúng thế! Đúng thế.
Tánh thấy là bản tâm thường trụ, không sinh diệt của mỗi chúng sinh và cái bản tâm này không thể trực nhận bằng nhục nhãn của con người. Nhục nhãn của chúng sinh thì thấy những sắc tướng hiện tượng bình thường, nhưng tánh thấy thì phải trực nhận bằng tâm hồn thanh tịnh, bằng trí tuệ sáng suốt và nó chỉ hiển bày khi tâm không còn lưu giữ bất cứ một trần cảnh phân biệt nào.
Tất cả những gì mà ông A Nan thấy được từ trong rừng Kỳ Đà cho tới rừng suối, nhà cửa, sông Hằng hay ngay cả hư không, mặt trời mặt trăng chỉ là ý thức sinh khởi phát xuất từ tâm phan duyên sinh diệt. Trong cuộc sống, tất cả những cảnh giới như thiên đường hạnh phúc, cõi cực lạc thanh tịnh thanh thoát an nhàn hay đau khổ đọa lạc như trong địa ngục đều do bản tâm của con người tác tạo. Chúng ta nghĩ thiện thì có cảnh thiên đường. Ngược lại chúng ta nghĩ ác, lợi mình hại người thì tâm bất an, sống trong lo âu sợ hải nên lúc nào cũng bị ám ảnh những hình ảnh kinh sợ nếu đây không là địa ngục thì còn là gì?
Nói tóm lại, trong nhận thức của ông A Nan chỉ loanh quanh lẩn quẩn qua hình bóng của pháp trần và ý thức.
Tuy đã theo chân đức Phật rất nhiều năm và tất cả pháp đều rót vào tâm ông, nhưng ông chỉ nghe mà chưa có khái niệm vững vàng về thể tánh của kiến tinh minh giác nên mới phát sinh ra ý niệm nghi ngờ mà cho rằng:”tánh thấy là tâm tánh hay không là tâm tánh? và tánh thấy ở trước mắt hay không ở trước mắt?”. Nếu ông A Nan cho rằng tánh thấy hiện ở trước mắt của ông mà ông thấy được thì tánh thấy đó chính là vật thể tức là nó có sắc tướng. Và nếu tánh thấy là vật thể thì lẽ ra ông A Nan phải chỉ được nó ở chỗ nào vì chỉ có vật thể mới thấy bằng mắt được. Nhưng tất cả những sự vật mà A Nan xem thì ông không thể chỉ ra được cái nào là tánh thấy. Do đó nếu nói rằng hư không thành ra tánh thấy thì còn cái gì mới là hư không. Thí dụ như dòng sông Hằng là tánh thấy thì còn cái gì mới là sông Hằng. Như thế tất cả những gì mà ông thấy được đều là vật chớ không có cái gì là tánh thấy cả.
Đến đây đức Phật mới đồng ý với ông mà cho rằng :
Không có vật nào là tánh thấy.
Đức Phật lại bảo A Nan :
- Như lời ông nói : Rời tất cả vật, tánh thấy không có. Trong tất cả vật chỉ ra được, không có cái nào là tánh thấy. Giờ đây ông cùng tôi ngồi trong rừng Kỳ đà này, ta hãy nhìn xem vườn rừng cho đến mặt trời, mặt trăng và vô vàn hình tượng, trong đó không có cái thấy để ông chỉ ra được. Vậy ông hãy phát minh trong các vật đó, cái nào không phải tánh thấy.
Ông A Nan bạch Phật rằng :
- Con xem khắp rừng Kỳ đà, tập trung tâm ý, quan sát tư duy, nhưng không tìm ra trong đó cái nào không phải tánh thấy. Vì sao? Nếu cây chẳng phải là cái thấy thì làm sao thấy được cây. Còn nếu cây là cái thấy thì sao gọi là cây? Như thế cho đến nếu hư không chẳng phải là cái thấy thì sao gọi là hư không? Con nay suy nghĩ chín chắn và phát minh trong muôn vàn hiện tượng, không có cái nào là tánh thấy.
Phật bảo: Đúng thế! Đúng thế.
Một lần nữa để làm sáng tỏ tánh thấy thanh tịnh nhiệm mầu, Đức Phật lại dạy A Nan rằng ông hãy xem xét lại tất cả các sự vật, có cái gì ra ngoài cái thấy không? Sau khi xem xét kỹ lưỡng ông A Nan xác định là dù cho trăm ngàn sự vật, nhưng không có sự vật nào ra ngoài cái thấy vì nếu có sự vật nào ra ngoài cái thấy thì đã không thể thấy nó được. Phật lại đồng ý và kết luận rằng :
Không có một vật nào không phải là tánh thấy.
Phần trước Phật xác định là “không có vật nào là tánh thấy” nhưng phần này Phật lại nói là “không có một vật nào không phải là tánh thấy”. Tại sao sự xác định của Đức Phật đối với ông A Nan lại mâu thuẫn lạ kỳ như vậy? Sự mâu thuẫn này chẳng những làm ông A Nan mà toàn đại chúng hoang mang dao động.
Trong thế giới của bản thể và hiện tượng thì chân lý “bất tức bất ly” nghĩa là bản thể tức là “không” và hiện tượng tức là “có” tuy không giống nhau nhưng không thể chia cắt, phân ly ra được. Nói thế có nghĩa là không có một hiện tượng nào trên thế gian này mà không ở trong bản thể và không có bản thể nào mà không biểu hiện qua hiện tượng. Đó chính là sắc tức là không và không tức là sắc bởi vì từ không mà duyên khởi thành sắc hay tất cả những cái có là từ cái không mà có. Thí dụ hiện tượng là sóng và bản thể thanh tịnh là nước yên lặng. Vì thế bản thể không rời hiện tượng tức là nước và sóng không thể tách rời nhau vì cùng là nước. Còn nếu nói hiện tượng không là bản thể tức là bỏ sóng tìm nước thì làm sao tìm thấy nước được. Tóm lại, nước không là sóng, nhưng nước không rời sóng cho nên nước và sóng là bất tức bất ly.
Nếu áp dụng chân lý “bất tức bất ly” vào trong trường hợp này thì tánh thấy tức là bản thể thanh tịnh còn tất cả những vật bị thấy như rừng kỳ đà, mặt trời mặt trăng, sông Hằng đều là hiện tượng. Nhưng tánh thấy và vật bị thấy không thể tánh rời nhau cũng như sóng không thể rời nước. Do đó nếu đứng về phương diện hiện tượng mà nói thì không có vật nào là tánh thấy vì chúng là sóng nước thay đổi sinh diệt. Còn nếu đứng về bản thể thanh tịnh mà nói thì không có vật nào là không có tánh thấy vì bây giờ chúng ta không còn nhìn sóng nước bên ngoài mà quay về nhìn thấu suốt thể tánh nước thanh tịnh bên trong. Đây là thế giới vô vi thanh tịnh nghĩa là thế giới của bản thể chân như thì tất cả đều là chơn không diệu tánh. Vì là chơn không diệu tánh nên tất cả sự vật đều có tánh thấy như nhau.
Không thông hiểu lời Phật không có nghĩa là Phật nói sai, nói dối vì Đức Phật lúc nào cũng thể hiện qua câu : ”Như Lai thị chơn ngữ giả, thật ngữ giả, bất dị ngữ giả, bất cuồng ngữ giả” nghĩa là lời nói của Phật là chân chính, là thành thật, không tráo trở và không bao giờ dối trá.
Bồ Tát Văn Thù Cầu Phật Thương Xót :
Phật Dạy : Tánh Thấy Không Có “Cái Thấy” Hay “Bị Thấy” (Thị, Phi Thị)
Bấy giờ trong đại chúng, những vị chưa chứng quả vô học, nghe Phật nói lời này, mờ mịt chưa hiểu thế nào, sanh lòng sợ hãi, không giữ được chánh niệm.
Trên bước đường tu học nếu người đệ tử Phật vừa mới nhập môn tu học cho đến các vị chứng được ba quả đầu tiên của hàng Thanh văn là Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm thì được gọi là hàng hữu học. Hữu học có nghĩa là còn phải học giáo lý, học chánh pháp để có thể diệt trừ phiền não vô minh mà có giải thoát giác ngộ. Nói cách khác, hữu học có nghĩa là còn có vô minh, còn có phiền não. Chỉ có những vị đã chứng quả A La Hán thì mới được gọi là hàng vô học. Vô học có nghĩa là đã chứng được vô sanh pháp nhẫn tức là các vị đó tự mình nghiệm chứng được vạn pháp sanh không thật sanh và khi vạn pháp diệt thì cũng không thật diệt. Khác với chúng sinh là khi thấy vạn pháp sanh thì tin chắc là vạn pháp sanh và khi thấy vạn pháp diệt thì nghĩ rằng vạn pháp sẽ biến mất nên không diệt trừ hết ưu bi khổ não làm tâm bất tịnh.
Trong cuộc sống hằng ngày, nếu chúng sinh không thông hiểu lý duyên khởi bằng cách dùng trí tuệ sáng suốt của mình để quán chiếu sự sinh diệt của vạn pháp mà chỉ dùng nhãn quan của mình thì chắc chắn tâm mình sẽ thăng trầm theo sự biến dời của vạn pháp. Thí dụ thấy một người chết, lòng đau xót vì thấy cảnh sinh ly tử biệt. Nhưng thật ra đâu có ai thật chết đâu mà sợ. Chết là để đổi thân cũ lấy thân mới vì khi nhân duyên hết thì mọi liên hệ thế gian cũng chấm dứt. Anh em, cha mẹ, vợ chồng, con cái mỗi người đi mỗi ngã tùy theo nhân duyên và nghiệp quả của họ. Vì thế con người, vạn vật thế gian chẳng khác gì vầng mây tan hợp, đến rồi đi, chia biệt để tương phùng.
Như Lai biết đại chúng lo sợ, khởi lòng thương xót an ủi A Nan và đại chúng :
- Các thiện nam tử! Bậc vô thượng pháp vương, lời nói chân thật, đúng như tánh chơn như, không dối gạt và lừa đảo quanh quẩn như bốn thứ nghị luận bất tử của bọn Mạt Già Lê. Các ông hãy suy nghĩ chín chắn, chớ phụ lòng thương xót của Như Lai.
Nghị luận bất tử là lối lý luận chẳng đi về đâu, nói sao cũng được, miễn sao vừa lòng người nghe bất chấp lời nói đó đúng hay sai. Đây là lời nói ba phải, lừa dối quanh co, không chân thật. Ngược lại đức Phật là bậc vô thượng pháp vương vì lời nói của Ngài là chân lý, là chánh pháp.
Bấy giờ Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, thương xót hàng tứ chúng, liền từ chỗ ngồi, đứng dậy đảnh lễ Phật, chắp tay cung kính thưa rằng :
- Bạch Thế Tôn! Đại chúng đây không hiểu được chỗ Như Lai phát minh hai nghĩa “phải” và “không phải” của “tánh thấy” và “sắc không”. Bạch Thế Tôn! Nếu những hiện tượng sắc không tiền cảnh là cái thấy thì lẽ ra có chỗ chỉ ra được. Nếu không là cái thấy thì lẽ ra không thể thấy. Nay đại chúng không hiểu nghĩa ấy do đâu, nên mới kinh sợ, chớ không phải vì thiện căn nhiều đời ít ỏi. Kính mong Như Lai thương xót phát minh chỉ rõ các vật tướng ấy và cái thấy vốn là thứ gì mà rời ngoài các ý nghĩa “phải” hay “không phải” như vậy?
Phật bảo Bồ-tát Văn Thù và đại chúng :
- Thập phương Như Lai và các đại Bồ-tát tự trụ tam ma đề, thì cái “thấy” , cái “bị thấy” và các nhớ nghĩ, tưởng tượng đều như hoa đóm trong không chẳng có thật. Bản thể của chúng vốn là tâm tánh Bồ-đề nhiệm mầu, thanh tịnh sáng suốt, cho nên trong đó không có vấn đề “phải” hay “không phải”?
- Tự trụ tam-ma-đề là thiền cao nhất trong Phật giáo. Nó chính là Như Lai thanh tịnh thiền có nghĩa là tâm của Như Lai lúc nào cũng trụ vào trong đó để thấy rằng vạn pháp duyên sanh như huyễn nên tất cả những bất tịnh của thế gian như tài, sắc, danh, lợi không bao giờ lọt vào trong tâm tưởng của Như Lai. Trong Phật giáo nếu thiền giả ngồi đếm hơi thở hay là thiền quán bất tịnh thì đây là thiền đối trị tức là thiền để điều thân. Còn thiền Sam-ma-tha là thiền Chỉ dùng để ngăn chận vọng tưởng tức là điều tâm. Còn ở đây Như Lai đã qua khỏi điều thân và điều tâm nên thiền của Như Lai gọi là tự trụ tam-ma-đề nghĩa là thiền mà không cần phải ngồi, phải đi hay nằm gì cả mà lúc nào tâm cũng hằng thanh tịnh. Tại vì bất cứ bốn oai nghi của Ngài đều là thiền vì thiền đây chính là thiền trong tâm chớ không phải là thiền ở bên ngoài. Thiền có nghĩa là không còn tánh tham tật đố, không còn tâm sân hận, không còn lòng si mê, không cần tài sắc danh lợi làm vẫn đục thanh tâm của mình.
Này Văn Thù! Nay tôi hỏi ông : Như ông là Văn Thù, có đúng là Văn Thù hay chẳng phải là Văn Thù?
- Đúng vậy, bạch đức Thế Tôn. Chính con là Văn Thù thì không thể nói “thật Văn Thù” được. Vì nếu nói “thật Văn Thù” thì phải nói có ông Văn Thù giả (thứ hai). Song con đã là Văn Thù rồi thì không thể nói “thật” hay “không thật” được.
Đức Phật bảo :
- Tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt này cùng với hư không và tiền trần cũng lại như vậy. Vốn là chơn tâm viên mãn thanh tịnh vô thượng giác ngộ sáng suốt nhiệm mầu, nhưng vọng làm ra sắc không và thấy nghe. Ví như mặt trăng thứ hai, thì cái nào là mặt trăng thật, cái nào chẳng phải mặt trăng. Này Văn Thù, chỉ có một mặt trăng thật. Trong đó không có cái nào là mặt trăng thật, cái nào chẳng phải là mặt trăng. Thế nên nay ông hãy xem cái thấy và trần cảnh cùng các thứ phát minh ra được đều là vọng tưởng, trong ấy không thể chỉ ra nghĩa phải và chẳng phải. Bởi do tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu ấy, nên khiến ông vượt ra ngoài cái chỉ ra được và cái chẳng chỉ ra được vậy.
Có ba điều kiện để tạo thành “cái thấy”.
1) Có mắt mà không có vật, màu sắc hay đối tượng thì không thành cái thấy.
2) Có vật hay đối tượng mà không có mắt thì cũng không thành cái thấy.
3) Bây giờ có mắt, có vật mà không có tánh thấy thì cũng không thành cái thấy.
Do đó muốn có cái thấy thì phải có mắt, có đối tượng và điều quan trọng nhất là phải có tánh thấy thì cái thấy mới thành tựu được.
Trong kinh này “thị” nghĩa là cái thấy và “phi thị” nghĩa là sắc không tức là trần cảnh bên ngoài. Vì nó là trần cảnh bên ngoài nên “phi thị” là cái bị thấy. Vậy cái thấy là căn mắt của con người và cái bị thấy là tất cả những cảnh vật, hình tướng, màu sắc bên ngoài mà mắt có thể thấy được. Như thế “phi thị” là những thứ như nhà cửa, xe cộ, núi cao, rừng thẳm, mặt trời, mặt trăng…và con mắt là cái thấy những hiện tượng này nên con mắt là “thị”. Vậy tất cả những hiện tượng trên thế giới hữu vi này không ra ngoài thị và phi thị.
Khi chư Phật mười phương và các chư đại Bồ-tát nhập vào tam-ma-địa nghĩa là các ngài nhập vào trong chánh định thì tất cả những ý niệm thiện ác, tốt xấu, hơn thua, phải quấy tan biến mà trở về với tự tánh thanh tịnh bản nhiên nghĩa là họ đang sống với bản lai diện mục tức là chơn tâm, là Phật tánh. Khi đạt đến trình độ này thì căn của mắt hay trần cảnh bên ngoài tức là cái thấy và cái bị thấy cũng không còn làm tâm của họ bị dao động nữa. Dựa theo nguyên lý bất nhị hay vào pháp môn không hai thì phiền não tức Bồ-đề, sinh tử tức Niết bàn. Vì sao? Một khi chúng sinh biết hóa giải tất cả những hệ lụy của phiền não trần cấu thì Bồ-đề hiển hiện vì phiền não, Bồ-đề là song lập, cùng tồn tại bất khả phân ly chớ không phải phiền não ở trong tâm còn Bồ-đề ở một nơi khác.
Thêm nữa, trên con đường giải thoát giác ngộ, người đệ tử Phật cũng cần nhận thức cho rõ ràng rằng một khi chúng sinh đã đoạn trừ mọi phiền não để có tâm thanh tịnh, nhưng nếu chúng sinh vẫn còn chấp vào sự thanh tịnh này tức là chúng sinh vẫn còn chấp pháp. Nếu tâm vẫn còn chấp cho dù đó là chấp ngã hay chấp pháp thì tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh vì thế những vị A la hán tuy đã phá được chấp ngã nhưng chấp pháp vẫn còn nên Niết bàn mà họ có chỉ là hóa thành (tạm thời) chớ chưa phải là bảo sở (hoàn toàn) như chư Bồ-tát hay chư Phật.
Chơn tâm vốn không hai nên không còn thị và phi thị đối đãi cũng như ngài Văn Thù không thể nói “thật” hay “không thật” được vì chỉ có một Văn Thù còn nếu nói có hai Văn Thù thì chẳng lẽ một thân mà có tới hai Văn Thù hay sao? Tánh thấy thì lúc nào cũng sáng suốt thanh tịnh trong khi đó thị và phi thị là những tướng trạng nằm bên ngoài. Do đó con người chỉ có một tánh thấy cũng như chỉ có một Văn Thù.
Lúc đưa tay lên dụi mắt thì khi nhìn mặt trăng chúng ta thấy có tới hai mặt trăng, nhưng trong tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu không có chứa mặt trăng giả hay mặt trăng thật cũng như trong bản tánh chân như cũng không chứa cái thấy và cái bị thấy. Vì tất cả những hiện tượng của thế giới hữu hình mà mắt thấy làm tâm khởi niệm phân biệt chỉ là vọng tưởng phát khởi. Nhưng tất cả những vọng thức phân biệt cũng trở về với bản tâm thanh tịnh của chính mình cũng ví như ra biển chúng ta thấy những bọt nước lao xao trên những làn sóng, nhưng tựu trung những bọt biển này cũng chính là nước biển bởi vì bọt biển, sóng biển cũng từ nước biển mà ra. Con người vì chạy theo hình tướng, văn tự mà bị chấp chặt trong đó nên quên mất đi bản tâm trong sạch thanh tịnh vốn đã có sẳn trong họ vì chơn tâm vượt ra ngoài sự đối đãi và nói năng phân biệt nên không thể nói “phải” hay “không phải”. Do đó nếu chúng sinh biết rời xa “thị” và “phi thị” tức là rời xa “cái thấy” và “cái bị thấy” thì họ sẽ quay về sống với chơn tâm, với bản lai diện mục của chính mình.
Hằng ngày con người sống dựa theo lục căn của mình, nhưng thật ra nếu dựa vào một khía cạnh là cái lục căn làm cho con người thấy, nghe, hay, biết, ngửi, nếm để biến hóa cuộc đời thêm nhức đầu, phiền não khổ đau thì còn một khía cạnh khác là cũng cái lục căn đó mà bây giờ lại giúp cho con người hưởng được những giây phút an vui thoải mái tự tại. Đây mới là mặt thật của lục căn và nó chính là bản lai diện mục có sẳn trong tất cả mọi người. Bản lai diện mục của chúng sinh vốn trong trắng hiền lành, an nhiên tự tại, chẳng vướng vô minh và cũng không còn phiền não. Vì thế khi tâm không còn phân biệt đối đãi, không còn thị và phi thị, không còn phải hay không phải thì tất cả những ý niệm của cái thấy và cái bị thấy sẽ hoàn toàn biến mất. Lúc ấy chơn tâm hiển bày, tự tánh biễu lộ vì con người đang sống với bản thể nhất chân tức là một là tất cả và tất cả tức là một vậy.
Lê Sỹ Minh Tùng
Còn nữa...