đậu tương đen hữu cơ

Kinh - Luật - Luận

10:40 30/03/2012

Luân hồi trong kinh Lăng Nghiêm - Phần 3 (Thích Nữ Giới Hương)

(TG&DT) - Mình biết mê không có gốc, vọng nó bản không, mê nó không có gốc mà tánh Phật là sự thật. Tánh Phật là sự thật hiển nhiên thì chỉ có một việc là an định vào tánh Phật mà buông những cái mê vọng của mình ra. Đừng nắm lấy vọng thân, vọng tâm và vọng cảnh nữa, đừng cho là thật, đừng sống với nó nữa, thế là tri kiến thanh tịnh.
Chương V
THIẾT LẬP HAI ĐIỀU NẠN HỎI


Đến phần này thì tôn giả Phú-lâu-na bắt đầu xuất hiện. Phú-lâu-na cũng được mệnh danh là một trong thập đại đệ tử giỏi của Đức Phật, bậc nổi tiếng về biện luận đệ nhất trong tăng đoàn của Phật.


Khi đó tôn giả Phú lâu na bạch Phật rằng Đức Thế tôn có oai đức lớn, khéo vì chúng sanh diễn bày Đệ nhất nghĩa đế của Như lai. Đức Thế tôn thường cho rằng trong những người thuyết pháp, con là bậc nhất, song nay con nghe pháp âm nhiệm mầu của Như lai cũng như người điếc, cách xa trăm bước, nghe tiếng muỗi mạt, vốn đã không thấy, huống nữa lại nghe. Tuy Phật chỉ rõ, khiến cho tôi trừ được lầm lạc, nhưng tôi chưa rõ chỗ rốt ráo, không còn nghi hoặc của nghĩa ấy.


Và Phú lâu na bắt đầu trình bày hai điều nạn hỏi mà ngài không hiểu, thỉnh Phật giải bày. Để cho dễ hiểu hai câu hỏi này, xin được phép chia ra năm phần nhỏ là 1A, 1B, 1C và 2A, 2B:


CÂU 1. 1A. Bạch Thế Tôn, nếu như hết thảy các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới v.v... trong thế gian đều là tính thanh tịnh bản nhiên Như Lai Tạng, thì làm sao bỗng nhiên lại sanh ra các tướng hữu vi như núi, sông, đất liền thứ lớp dời đổi trước sau quanh lộn? [1]


Đức Phật đáp rằng: “Ngày nay Như lai khắp vì trong hội này chỉ bày tính chân thắng nghĩa trong thắng nghĩa, khiến cho ở trong hội này, những hàng định tính Thanh văn và hết thảy các bậc A-la-hán, chưa được hai phép nhân không và pháp không, phát tâm hướng về thượng thừa, đều được chỗ tu hành chân chánh, thiết thực không xao động của cảnh giới tịch diệt nhất thừa. Thầy hãy nghe kỹ, Ta sẽ vì thầy mà nói.


NÊU BẢN TÍNH ĐỂ CHỈ RÕ CĂN NGUYÊN HƯ VỌNG


Này Phú-lâu-na, như thầy vừa nói: đã là bản nhiên thanh tịnh, làm sao bỗng nhiên lại sanh ra có núi sông đất liền. Vậy thầy không thường nghe Như lai chỉ dạy: Tánh giác là diệu minh, bản giác là minh diệu hay sao?


 Bạch Thế Tôn, con thường nghe Phật chỉ dạy nghĩa này.


Phật bảo: Thầy bảo cái giác là minh, lại là vì bản tánh nó là minh, nên gọi nó là giác; hay là vì giác được cái không minh, mà gọi là minh giác?


Phú Lâu Na bạch: Nếu cái không minh đó mà gọi là giác, thì nó không minh được cái gì.


Phật dạy: Nếu không có sở minh là không có minh giác, thì có sở không phải là giác, mà không sở, lại không phải là minh; và không minh, thì lại không phải là giác tánh trạm minh. Vậy tánh giác chắc là minh, do vọng tưởng mà làm ra có minh giác. Giác không có gì là sở minh, nhân minh mà lập ra thành sở, đã giả dối lập ra có sở, mới sinh ra cái năng hư vọng của các vị.


Trong tính không đồng, không khác, nổi dậy thành ra có khác; khác với cái khác kia, thì nhân cái khác đó, mà lập thành cái đồng. Phát minh cái đồng, cái khác rồi, thì nhân đó, mà lập ra cái không đồng, không khác. Rối loạn như thế, đối đãi với nhau sanh ra lao lự; lao lự mãi phát ra trần tướng, tự vẫn đục nhau; do đó đưa đến những trần lao phiền não. Nổi lên thì thành thế giới, lặng xuống thì thành hư không; hư không là đồng, thế giới là khác; cái không đồng, không khác kia, thật là pháp hữu vi. [2]


Bây giờ chúng ta tìm hiểu câu hỏi số 1A nghĩa là tại làm sao Như lai tạng bản nhiên thanh tịnh, nay lại hiện ra các tướng hữu vi, các tướng chúng sanh mà không phải chỉ hiện rồi hết mà nó thiên lưu, diệt rồi sanh, sanh rồi diệt, suốt từ vô thủy đến giờ và có thể kéo đến vô chung?


Đây là lời Đức Phật giảng cho tôn giả Phú-lâu-na và các A-la-hán, chứ không có bậc phàm tình dày đặc tham, sân, si như chúng ta. Trong hội trường lúc đó là toàn thánh nhân xuất thế cả, cho nên chúng ta nghe hơi khó hiểu, rối rắm. Chúng ta phải để tâm lắm, phải dồi mài lắm, thì mới hiểu được cái việc Như lai chỉ bày tánh chân thắng nghĩa trong thắng nghĩa.


Thắng nghĩa là nhận được Phật pháp để thành Phật.


Tánh chân thật thắng nghĩa tức là nhận được ra nhân tu, nhận được tánh Phật ở nơi sáu căn, ở nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.


Như vậy có những nghĩa bình thường, chân nghĩa rồi chân thắng nghĩa.


Nghĩa bình thường tức gia đình, xã hội, nhà trường đã giáo dục cho chúng ta thành một con người bình thường, một con người với đầy đủ ý nghĩa bổn phận bình thường trong gia đình và xã hội. Chúng ta có câu ‘Làm một con người bình thường đã khó huống chi làm một thánh nhân’. Tức căn bản làm bình thường phải có rồi mới tiến lên thánh vị. Ngược lại làm không nổi, phá vỡ quy tắc làm người này tức phạm tội giết người, trộm cướp, ngoại tình... thì sẽ thành tội nhân, bị pháp luật trừng phạt.


Chân nghĩa tức nghĩa chân thật. Trong 12 năm thuyết pháp, Đức Phật đã dạy cho chúng ta chân nghĩa này, tức nhìn như thật về cuộc đời, biết sáu căn hư vọng, sáu trần huyễn hoá và sáu thức không thật để buông bỏ những tâm tham, sân, si, ngã ái, ngã kiến.


Chân thắng nghĩa là nhận tánh Phật ở nơi sáu căn, sáu trần và sáu thức đó. Những hàng định tánh Thanh-văn, những vị cố chấp trong sở đắc của mình, xem sanh tử trần thế là oan gia, Niết bàn là chỗ mình trở về, cho sáu căn này là bất tịnh dơ dáy, đồ bỏ, thì bây giờ Phật khuyên hãy hướng về thượng thừa, nhận cái quý giá ở sáu căn, tức quay trở về, hướng về nhận tánh thể không sanh già bịnh chết của mình, tánh Phật thường trụ ở sáu căn, nhận ra kiến tinh, phần chân thật, khác hẳn với vọng tâm, vọng thức của chúng ta. Đây là chân thắng nghĩa trong thắng nghĩa.


Đây cũng là chỗ khó hiểu của đạo Phật. Tuy nhiên cái khó này chính là cái kết quả lớn lao, giá trị tinh hoa của đại thừa. Giống như chúng ta đi mua hàng, chỉ cần vài mỹ kim thôi là được mấy thùng kẹo to lớn, nhưng cả trăm ngàn mỹ kim mới đổi được một viên kim cương quý giá. Tiền nào của đó. Thế nên cái khó là cái giá trị.


- Tánh giác là diệu minh, bản giác là minh diệu: Tánh Phật của chúng ta đặc biệt về chữ minh mà bản gốc và thể chất của nó thì đặc biệt về chữ diệu. Bởi nó minh cho nên nó phân biệt, nó mới có chỗ phân biệt, đưa đến chỗ mà bây giờ chúng ta nhận thức là mình, người... rồi đi đến các thứ biến hoá. Tuy nhiên bản gốc, thể chất của nó là diệu, nên tùy duyên minh biến hoá các thứ nhưng bất biến, chất của nó không mất. Vẫn tùy duyên minh biến hoá, nhưng nó vẫn diệu, bất biến.


Nói chữ tánh là nhấn mạnh về chữ minh mà nói về bản thể là nhấn mạnh về chữ diệu. Thể của cái chuông bằng đồng, tánh nó là cứng; thể của hoa là bằng đất và tánh là mềm; thể của tâm chúng ta là diệu và tánh là sáng, là minh.


Do chúng ta bất giác muốn minh nên chia ra hai: minh và sở minh tức kiến phần là  tinh thần và tướng phần là vật chất. Bất giác đây gọi là sanh tướng vô minh tức lúc bắt đầu cái vô minh ấy. Ngay khi khởi lên một niệm thì mình đã tách tâm mình ra làm hai. Tâm của chúng ta thành thức thứ tám, không còn gọi là chân tâm nữa. Tánh của mình vốn có một tánh, không đồng, không khác, ít có cái gì khác để mình phải phân biệt, bây giờ lại thành chuyển động phân biệt có đồng và khác.


Do chuyển động để ý, phân biệt thấy có cái khác. Thấy cái khác tức là chúng ta mê muội thấy có hư không. Hư không nó không khác với mình (vô tướng). Rồi kết ám lại thành sắc, khác với hư không. Nhân khác với cái khác mà lập cái đồng, tức là thấy đất, nước, gió, lửa khác với hư không. Rồi từ tánh không khác, không đồng là chân tâm rồi bỗng thành có đồng có khác.


Kiến phần cho là mình và nơi tướng phần là cảnh bên ngoài thì vọng tâm đối cảnh phân biệt, tìm hiểu, hình thành, dẫn khởi ra thức. Thức thứ bảy phát sanh ra ý thức tức thức thứ sáu. Ý thức là ngã chấp câu sanh, còn thức thứ bảy lại hằng thiểu tư lường. Ý thức theo trần niệm nhiễm trước, nó vướng mắc chấp thủ. Theo danh chấp tướng, từ ngã chấp câu sanh mà phân biệt.


Khi bắt đầu có ý thức phân biệt mới sinh ra các thứ yêu ghét. Những tâm niệm của mình giao xen lẫn nhau, tự mình phân biệt là tự mình vẫn đục. Chấp danh tự này, lại chấp hình tướng kia thành có cái tham, sân, si, sầu, bi, khổ, ưu não đưa đến trần lao phiền não tạo nghiệp. Tạo nghiệp rồi mới ra quả báo nổi lên thành tướng, lặn xuống thành hư không.


Từng bước từng bước chúng ta bắt đầu vô minh. Thật ra lúc đầu chỉ có chân tâm của mình duy nhất. Mình bắt đầu bất giác minh tìm hiểu, phân biệt, thế là từ đấy mở ra, cứ đi dần cho tới bây giờ cảm quả báo.


Chúng ta đọc từng chữ từng chữ Đức Phật phân minh. Vì sao chúng ta đang là ông Phật mà bỗng nhiên thành ra vọng kiến chúng sanh như bây giờ. Ban nãy gọi nó là đồng với mình, rồi khởi vọng niệm và từ vọng niệm ấy mà cứ thế nối tiếp. Cho nên cần phải định, hễ không định mà loạn động lên thì nó mở ra nhiều thứ, cho nên trong tranh vòng luân hồi [3] vẽ đuôi con quỷ vô thường dài vô tận; hai bàn tay với hai bàn chân của quỷ ôm bánh xe quay mãi, xoay trục quay liên tục vì nhiều thứ nghiệp cứ tiếp tục không ngừng nghỉ, không mệt mỏi.


Hễ không định, mà muốn minh thêm tánh giác tức muốn phân biệt tánh của mình, mà tánh mình là tánh giác minh rồi. Do muốn minh thêm cái giác, muốn phân biệt tìm hiểu, ngay lúc mình muốn phân biệt đó là cái hốt nhiên, Phật gọi là sanh tướng vô minh. Đã là vọng mà muốn minh thêm cái giác, đó là sanh tướng vô minh, u tối.


Sanh tướng vô minh tức là bước đầu. Bây giờ gọi là vọng tâm vì từ sanh tướng đó sanh ra trùng trùng những đồng khác, trong thì thấy có vọng tâm, ngoài thì vọng cảnh. Biết một thì chúng ta muốn biết hai, biết hai thì chúng ta muốn biết ba, bốn thành ra lao nhọc. Đấy là từ lúc mình có mắt thấy, từ chỗ vọng tâm đối đãi sanh lao để mà muốn thấy như thế. Dẫn khởi thức tình, lao lự mãi là hằng thẫm tư lường pháp chấp. Hằng thẫm tư lường là thức thứ bảy. Hằng thẫm tư lường thì phát sanh thức thứ sáu chạy theo cảnh ngoài, vịn vào trần niệm nhiễm trước.Thật ra lúc đầu chỉ một cái tâm của mình đâu có hai, hay ba hay cả tám thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, thức thứ bảy và thức thứ tám).


Đức Phật chỉ từng bước đi. Bắt đầu nhận kiến phần là mình, là bắt đầu có thức thứ bảy. Từ thức bảy trong chấp là mình, từ cái vô minh ấy nó mới dẫn khởi thức thứ sáu, sai thức thứ sáu đi thâu các cảnh bên ngoài vào để làm sở hữu (ngã và ngã sở).


Bản lai vốn không đồng không khác mà giờ có hư không là đồng, (không hình, không tướng giống chân tâm), thế giới là khác, có núi có sông, có nhà có cửa, có thân mình, có chúng sanh đọa trong ngục năm ấm, có cảnh mình sống, có chuyện đọa lạc tức là có đủ chánh báo và y báo. Từ chỗ ấy bắt đầu có quả báo gọi là khổ tướng xuất hiện.


Đây Phật muốn nói tánh của nó là minh, nếu không minh sao gọi là giác tánh trạm minh. Tánh nó là minh. Nó đã tự minh sao mình tìm hiểu phân biệt để tự minh cáo làm gì nữa. Thể tánh của nó vốn là minh rồi, sao lại bảo không minh, mình minh làm chi để sanh ra khác, đồng, con người, chúng sanh, thế giới và nghiệp quả, chỉ lỗi là do mình hốt nhiên bất giác.


Đây là điều Đức Phật nói cho các vị A-la-hán nghe, cho nên không phải là dễ, nhưng nếu chịu khó chúng ta cũng có thể hiểu và tin. Hãy trầm tư ngẫm nghĩ vào pháp vị thâm áo ẩn tàng đó hàng giờ và hàng ngày.


1.B. BA TƯỚNG KẾT QUẢ TIẾP TỤC


Mãn từ (Phú lâu na) hỏi về chúng sanh, thế giới, nghiệp quả tương tục tánh tướng để biện giải về vạn pháp và xin Đức Phật giải đáp.

 

Tôn giả hỏi là tâm chúng sanh vốn là tánh Phật mà tại sao bây giờ lại vọng kiến thấy mình là chúng sanh ở trong thế giới y báo mà rồi vẫn cứ có nghiệp quả nối tiếp để hết thân này lại có thân khác, hết cảnh này lại có cảnh khác mà từ vô thủy đến giờ vẫn chưa ngừng nghỉ.


Vậy sáu đạo hữu tình này, cảnh giới đoạ lạc của sáu đạo luân hồi này bản lai tự có hay do tập khí chúng sanh tự khởi ra, vốn vẫn sẵn có như thế hay là về sau mê muội vọng tập mà biến hoá ra?


Phần này cũng rất khó vì thuộc tạng tánh. Chúng ta phải lưu tâm suy nghĩ, phải thực tập hạnh vô sanh pháp nhẫn tức nhẫn sự thật về vô sanh mà từ trước tới giờ mình chưa nghe. Nhẫn chịu khó nghe nhiều lần, dồi mài tư duy rồi sẽ nhận lại nghĩa này nơi thân tâm mình.


Câu 1B sẽ là câu cụ thể của câu hỏi 1A. Tôn giả Phú lâu na hỏi các tướng hữu vi thiên lưu thành hoại không ngừng tức hỏi cụ thể vì sao thế giới, chúng sanh và nghiệp quả cứ tiếp tục? nên câu 1B sẽ là phần giải thích ba vấn đề này.


THẾ GIỚI TIẾP TỤC


Cái giác thì sáng suốt, cái hư không thì không hay biết, hai cái đối đãi với nhau, thành có lay động, cho nên có phong luân nắm giữ thế giới. Nhân cái hư không mà sinh ra có lay động, phát minh tính cứng thì thành có ngăn ngại; các loài kim bảo đều do minh giác lập ra tánh cứng, cho nên có kim bảo nắm giữ cõi nước. Biết cái cứng thì thành có kim bảo, rõ cái lay động, thì phong đại phát ra: phong đại và kim bảo cọ xát nhau, cho nên có hoả đại làm tính biến hoá. Ngọn lửa xông lên, kim bảo sinh ra tính ướt, cho nên có thủy luân trùm khắp các cõi mười phương. Lửa bốc lên, nước sa xuống, giao nhau phát hiện, mà lập thành tánh cứng: chỗ ướt là bể lớn, chỗ khô là gò nổi; do cái nghĩa ấy, trong bể lớn kia, hơi nóng thường bốc lên; trong gò nổi kia, sông ngòi thường chảy xuống. Thế nước kém thế lửa, thì kết thành núi cao, vậy nên đá núi, đập thì có tia lửa, nấu thì chảy ra nước. Thế đất kém thế nước, rút ra thành cây cỏ, vậy nên rừng rú bị đốt thì thành đất, vắt ra thì có nước.


Vọng tưởng giao xen phát sanh, xoay vần làm chủng tử cho nhau; do nhân duyên ấy mà thế giới tiếp tục [4].


Đây là khởi nguyên thế giới. Nói khởi nguyên thế giới và thế giới tương tục là nói về mặt vật lý. Đức Phật có Phật tuệ nên ngài nhìn thấy được, còn chúng ta còn đeo nhục nhãn tức còn đeo kiếng đen nên không thấy các pháp như thật được.


Bầu khí quyển chúng ta gọi là hư không nhưng thật ra là vòng không khí. Vòng không khí bao quanh, trùm xung quanh quả đất của mình, giữ vững quả đất lại. Nhân hư không mà sinh ra lay động, phát minh tính cứng, cho nên có kim bảo nắm giữ cõi nước. Gió thổi có động. Tâm mình muốn đứng vững lại cho nên gọi là kiên ngưng. Ngưng chướng ngại thì cảm quả báo có kim bảo, nghĩa là do kiên ngưng mà nó thành chất cứng của mình, thành kim luân tức vòng bằng vàng tròn bao quanh quả đất.


Hồi xưa tâm thanh tịnh rồi dần dần si nghiệp nó chuyển. Nói bên cực lạc đất toàn bằng vàng, đây không phải là chuyện bịa mà có sự thật.


Trong kinh A-di-đà, Đức Phật Thích Ca nói rằng:


Xá lợi Phất! Lại trong cõi Cực lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy đủ Nước Tám Công Đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Trong ao, có hoa sen lớn như bánh xe, hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, hoa sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sáng trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.


Xá lợi phất! Cõi nước Cực lạc trọn nên công đức trang nghiêm dường ấy.


Xá lợi phất! Lại trong cõi nước của Đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời Mạn đà la...[5]


Chúng mình cũng thế lúc đầu trái đất bằng vàng, nhưng mê muội đi về đường mê nhiều. Tâm si mê mất sáng suốt nên chuyển thành đất, thành quả đất của mình. Cho nên chúng ta thấy văn dịch của Tâm Minh nói là vòng kim luân, trong khi văn dịch của HT T Duy LựcTánh không sanh ám muội, kết tụ thành sắc, tức là địa (trái đất)[6] . Phải dùng định lực, tuệ giác thì mới thấy được điều này, mới thấy đúng, có thể từ vàng chuyển thành đất, cõi tịnh và ta bà.


Tánh của kim luân thì kiên ngưng mà phong luân thì thổi và chuyển động. Hai bên cọ xát tạo ra hỏa luân làm tánh biến hoá. Ngọn lửa xông lên đốt kim luân sanh ra tánh ướt nên có thủy luân tràn đầy khắp pháp giới. Thế giới này có gió rồi có kim si mê thành đất, rồi mới có lửa, nước, thế là đủ bốn thứ rồi (gió, kim, lửa, nước, rồi mới thành đất, nước, gió, lửa), mới biến hoá thành ra các cảnh giới, rồi cây cối, biến thành ra các thứ sơn hà đại địa.


Đầu tiên là vòng gió, kim/ địa, lửa, nước. Vậy thế giới chúng ta ở từng vòng từng vòng theo như văn kinh minh họa. Đây quả đất hình tròn, ở ngoài quả đất có vòng không khí. Vòng đất rồi nước chảy ở trong, trong ruột quả đất là lửa, khoan xuống thì có giếng nước. Nước có vòng nước nó chảy trong lòng đất. Bởi vì lửa bốc lên, nước sa xuống, thế cho nên trong biển vẫn có lửa. Trong đá có cả nước cả lửa (núi phun lửa, núi lửa). Chúng ta lấy đá đập vào nhau thì nó xẹt ra lửa, còn mình nung đá thì nó thành nước. Gò là chỗ có đất nhiều, nước ít. Chỗ ướt thế nước mạnh hơn thế đất sẽ tếch thành cái lá cành hoa, rừng cây ruộng cỏ.


Cho nên cảnh cứ hiện lên, kết mê muội mãi thì hư không nối tiếp, kết ái nhiễm, sân hận, ngu si mãi cho nên đất, nước, gió, lửa cứ nối tiếp. Hễ chúng ta thèm ăn thì miệng chảy ra nước. Thân đã chết thì con mắt chảy ra nước, biết mình bắt được vàng hay trúng số thì toát mồ hôi. Hễ có lòng tham muốn ái ân thì dễ dàng đưa đến mất chánh niệm.


Hiện tại cho chúng ta thấy lòng tham khởi ra nước. Hễ sân thì khởi ra lửa, mê kết ám lại thì thành hình sắc, thành đất đá. Do những vọng tưởng giao xen này làm chủng tử cho nhau nên đất, nước, gió, lửa nối tiếp. Như vậy đất, nước, gió, lửa là nền tảng cấu thành thế giới. Đây là nói từ trong nghiệp báo của chúng ta hiện lên các thứ, đều là những cái không hề có.


Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra, đang vừa có lửa vừa có nước ái chảy ra. Gió là do tâm động mà tạo thành. Đất là do si ám kiên ngưng mà thấy ra chướng ngại, chỉ toàn là tâm không chi khác. Thế rồi cứ làm nhân lẫn nhau vì thế có quả báo có thân rồi lại tạo ra các nghiệp. Đây là lý do có thế giới tiếp tục, tức có đất, nước, gió, lửa tiếp tục.


Từ trên đến đây Đức Phật nhắc đi nhắc lại, chỉ là nghiệp báo của chúng ta, hiện lên các thứ, chúng là những cái không hề có.


CHÚNG SANH TIẾP TỤC


Lại nữa, Phú Lâu Na, vọng tưởng chẳng phải gì khác, do tính giác minh hóa ra lầm lỗi; cái sở minh hư vọng đã lập, thì phạm vi của cái năng minh không vượt khỏi được. Do nhân duyên ấy, nghe không ra ngoài tiếng, thấy không vượt khỏi sắc, sáu cái vọng: sắc, hương, vị, xúc v.v…, đã thành lập, thì do đó, chia ra có thấy, nghe, hay, biết.


Đồng nghiệp ràng buộc lẫn nhau mà hợp, mà ly, mà thành, mà hóa. Cái thấy phát minh, thì cái sắc phát ra; nhận rõ nơi sự thấy, thì thành có tư tưởng; rồi ý kiến khác nhau, thì thành ra ghét, tưởng niệm đồng nhau, thì thành ra yêu. Lan cái yêu ra, thành hạt giống, thu nạp tưởng niệm, thành ra cái thai, giao xen phát sinh, hấp dẫn bọn đồng nghiệp, nên có nhân duyên sinh ra yết la lam, át bồ đàm v.v… Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh hay hóa sinh là tùy phần sở ưng: Noãn chỉ do tưởng niệm mà sinh, thai thì nhân ái tình mà có, thấp sinh thì cơ cảm mà hợp lại, còn hóa sinh thì phân ly mà ứng hiện. Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly, thay đổi lẫn nhau, nên các loài chịu nghiệp báo cũng theo đó mà lên xuống; do nhân duyên ấy, chúng sinh tiếp tục [7].


Nói khởi nguyên và sự tương tục của thế giới ở trên là nói về mặt vật lý. Bây giờ đến chúng sanh tương tục tức đề cập hai phần: vật lý và tâm lý hình thành ra chúng sanh. Thuật từ Phật học gọi chúng sanh là chánh báo và thế giới là y báo.


Từ sanh tướng vô minh dẫn đến y báo và chánh báo liên đới nhau như sau: Sự thật hiện tại là chúng ta thấy không ra ngoài sắc/không sắc, nghe không ra ngoài động/tĩnh, ngửi không ra ngoài hương/không hương, nếm không ra ngoài vị/nhạt, xúc không ra ngoài chạm/không chạm và ý không ra ngoài sanh/diệt (đây là những đề tài quán rất hay). Từ cái có sáu căn đối sáu trần sanh ra phân biệt yêu ghét, hờn tủi, sầu bi khổ ưu não thành bịnh chúng sanh. Thế rồi, khác ý thì ghét, mà hợp ý thì thương nhau. Thương mãi không rời, vọng tưởng thương yêu này loạn tạp vào sắc tạo thành cái thai, hấp dẫn bọn đồng nghiệp.


Đồng nghiệp những người thích việc ái ân thì đứng quanh quẩn đợi cha mẹ giao hợp để tùy hỉ gá thân. Nghiệp làm chó thì đợi cha mẹ chó đực và chó cái giao hợp rồi gá vào. Dòng nước ân ái yêu thương kết thành tập khí chủng tử. Hấp dẫn đồng nghiệp tác hợp với phôi thai. Phôi lớn thành thai, rồi hình thành sáu căn (nhà có sáu cửa) tiếp xúc bên ngoài, cảm thọ những ái nhiễm. Thủ giữ những ái nhiễm mà có hữu. Có hữu tức có nhân sanh tử. Cái nhân đã tượng hình thì sẽ theo luật sanh trụ dị diệt, sanh già bịnh chết cứ thế tiếp tục, theo thời gian mà phát triển. [8] Thai sanh, noãn sanh, thấp sanh hay hoá sanh là tùy phần sở ưng, tuỳ gieo nhân nào mà ứng hiện loài ấy.


1. Noãn sinh là do tưởng niệm mà sanh, tức các loài sanh từ trứng. Từ trứng nhưng có giống bay lên trời như chim, giống bơi dưới nước như cá, giống sống trên mặt đất như gà vịt… Có một người thích ăn thịt gà đang chuẩn bị cháo gà để ăn, mũi chưa kịp nhận hương gà thì vô thường đến, khiến thần thức chui vào bụng con gà để tái sanh kiếp gà rồi, đều là do tưởng, do nhớ đến và thần thức đi với kiếp gà.


2. Thai sinh thì nhân ái tình mà có, có loài vào bào thai không vào trứng. Cõi người, con chó... là do thai sanh. Lúc lâm chung mà có cái nghiệp nó dẫn thì ngay lúc mắt vừa thấy cảnh giao hợp ái ân giữa hai giới tính khác nhau, tâm vừa khởi ưa thích, nó nhanh như điện, liền lãnh thọ cái tâm ưa thích ấy. Tuy gọi là hai nhưng mà là một. Cái tâm của mình thọ, mình khỏi mắc công nói do thọ mà sanh ái, vì trên thật tế thì ngay lúc mắt thấy, thần thức đã ở ngay trong bào thai rồi, thọ-ái nhanh lắm đi liền với nhau vì nó chỉ là một cái tâm của mình mà thôi. Sở dĩ có sự nhanh như thế vì chúng ta vọng tập nó từ vô thủy rồi. Thế cho nên phải diệt cái vọng tập đó đi, bằng cách trở về tánh Phật và an định vào tánh Phật, đừng để cho nó lôi mình đi nữa.


3. Thấp sinh thì cơ cảm mà hợp lại, tức là các loài côn trùng hợp với ẩm thấp, sanh ra nơi ẩm ướt, như con muỗi trứng nó đẻ dưới nước; lăng quăng, trùng, dòi, loài bọ sát sanh ở đất ẩm, ruộng đồng.


4. Hoá sinh thì do phân ly mà ứng hiện như loài bươm bướm hay những người ở thế gian tạo ác nhiều thì khi lìa thân này tự thấy mình hoá sanh trong địa ngục, có các cảnh giới hành hình đau khổ.


Nếu thiện hạnh ở hiện đời mạnh thì khi rời thân người tự thấy mình hoá thân ở trên cõi trời, có cảnh vui thù thắng, các phước tướng của trời, chứ không ở trong trứng quả, các vị này cũng gọi là hoá sanh.


Chúng ta bây giờ sống với sáu trần, thèm khát cảnh trần. Nên hễ thân này già, chết tan đi thì chúng ta lại có thân khác, cứ phải tạo có cái thân, cứ phải để cho sáu giác quan chạy ra bên ngoài mà không biết như thế là đi theo đường lầm mê. Vì vậy thân này chết thì tinh thần tạng thức thành thân khác liền, nếu tùy hỉ sự giao hợp của cha mẹ thì thần thức liền gá vào thành cái thai. Sau bảy ngày thai nhi thành hình bọt nhớt bồ đàm tức thành bong bóng. Sau 21 ngày thì nó thành thịt mềm. Ngày 28 thì thành thịt cứng và đến 35 ngày thì nó có hình dạng người, rồi 9 tháng 10 ngày sanh ra.


Đồng nghiệp ràng buộc nhau, cùng đồng nghiệp ở trong luân hồi buộc nhau mà hợp ly mà tình mà tưởng. Hợp nhau thì khi yêu khi ghét tạo các duyên khiến cùng nhau đọa lạc.


Hoá sanh lìa thân cũ là người, hiện thân sanh lên cõi trời, chứ trên trời không có từ thai sinh ra như loài người.


Khi nào sanh ở cõi trời thì bỗng nhiên đang ngồi thấy một thằng bé xuất hiện ngồi trên đầu gối của mình, tức là thành cha con, không phải như ở thế gian là bồng bế ẳm thai nhi gì cả. Ở trong địa ngục cũng thế, bỗng nhiên thấy có mình ở trong đia ngục, vị này gọi là ly. Hoá sanh do phân ly mà thành nghĩa là rời cảnh cũ mà ở cảnh mới thì là địa ngục, là hoá sanh.


Thành là thành hình, ở trong thai mà thành hình như là con gà nó ở trong quả trứng, dần dần nó thành thân thì gọi là thành. Còn hoá sanh như con bướm đang là con nhộng, con sâu thế là nó mọc cánh thành con bướm, mọc cánh bay. Cứ thế theo nghiệp mà ràng buộc nhau. Cái thấy phát minh cái sắc và nó tự thấy sắc đi cặp với nhau. Hễ có âm thanh tức là có nghe. Hễ có mùi thơm hôi đã có cái ngửi. Đã có cái ngửi tức đã có cái thơm và hôi. Cái chua với cái biết nếm, biết xúc với cái xúc đi liền nhau, có pháp trần tức là có ý thức đồng thời có thì cũng có, không thì cũng không. Đã có cái vọng tâm là bởi vì có vọng cảnh. Vọng tâm gặp vọng cảnh thì khởi vọng hoặc. Mắt trông thấy cây ổi thì liền khởi cái nghĩ. Cho nên tất cả những hình ảnh, những cảnh trần hiện lên thì Đức Phật gọi là kiến hoặc, tức là cái thấy, rồi mình lại vơ những bóng ảnh bên ngoài, vơ vào tâm suy nghĩ thì cái ấy Đức Phật gọi là tư hoặc.


Kiến hoặc và tư hoặc là gốc trầm luân. Bây giờ đã có kiến hoặc, tư hoặc rồi, nếu khác ý nhau thì thành ghét, giận hờn, còn nếu đồng ý với nhau thì ràng buộc. Ái cũng là ràng buộc, ố cũng ràng buộc. Vì có ghét, có ái rồi xen tạp vọng tưởng thì thành hạt giống. Sự ái nhiễm giữa nam và nữ là suối nguồn thành biển sanh tử thế gian. Đây là cái nghiệp để có sự sinh sản nối tiếp. Chúng ta hay nói có điện âm, điện dương quấn quít lấy nhau. Cứ tơ tưởng đến dục ái thì thành hạt giống. Hạt giống nếu đừng gặp duyên thì khô chết, cũng như hạt mít nếu cất trong kho thì muôn đời là hạt mít khô, mà để dưới đất thành cây, ra quả nên phải tránh duyên để giác tỉnh.


Ở đây, tâm có dục tình mới thâu nạp dục tưởng thành thai. Người nữ tưởng như mình thâu nạp cái hạt giống của người nam, bởi đôi bên có tư tưởng ái nhiễm nên hai căn chảy nước. Người nam tiết tinh trùng. Người nữ thâu nạp giao nhau thành ra tinh trùng vào trong máu huyết của người nữ. Trong sách nói tinh cha huyết mẹ, hạt mủ của cha và huyết đỏ của mẹ. Cha cũng như hạt ổi và huyết mẹ như đất. Hạt ổi bỏ xuống đất và tưới thêm nước. Đây cũng thế người nữ thâu nạp hạt giống, tưởng nó thành hạt mủ vào máu huyết của người mẹ dần dần thành thân, thành thai nhi.


Do giao cấu phát sanh hấp dẫn bọn đồng nghiệp. Đứa trẻ vong linh ấy có nghiệp dâm dục và cùng với cha mẹ đồng nghiệp, nó mới gá vào thành ra yết-la-lam là cục nhớt, nghĩa là nó gá vào trong đám máu mủ tinh trùng của cha mẹ, nó thành miếng nhớt rồi nó thành bong bóng rồi thai nhi.


Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh tùy phận mà có chỗ cảm ứng. Có người nghiệp dâm dục thì vào bào thai. Noãn là duy tưởng sanh tức là loài đẻ trứng do tâm vọng tưởng mà thành. Cái tinh thần đồng nghiệp mắc vào quả trứng đó thành ra loài noãn sanh, ví như người thích mùi thịt gà và vẫn cứ giết gà để ăn, bởi vì có nghiệp thích ăn thịt gà. Lúc lâm chung, thoảng ngửi thấy mùi thơm, thoảng ngửi thấy mùi thịt gà tức là đã mắc vào quả trứng của con gà nào đó. Thế thì chỉ một hơi thở hắt ra thì ông đã ở trong quả trứng của con gà rồi.


Đang mới làm loài người thẳng đứng, chỉ một thoáng ngửi lấy mùi thơm lúc ấy chưa đến một tích tắc, một sát na đã ở trong quả trứng của con gà. Sau này làm con gà cho người ta cứa cổ, vì cứ ăn thịt gà và cứ sai người làm thịt gà. Khoảng cách chuyển sang kiếp khác chỉ một sát na, cho nên tổ nói chỉ trong chớp mắt nó đã biến sang loài khác rồi.


Đức Phật dạy phải đề phòng năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Chúng ta cứ quen thọ cả ngày, đạo nghiệp của mình là phải tỉnh ra. Giữ chánh niệm, quay về niệm Phật, đừng lãnh thọ những cảnh bên ngoài. Hương thơm bay đến mũi, giác tỉnh biết ngay là huyễn, mà cái này đạo nghiệp (bổn phận tu tập) hàng ngày của mình phải tập. Như có một thiền sư ngồi thiền trên ao, có hương thơm của hoa phất qua mũi, sư thích quá ngồi hoài. Đợi đến lúc vị thần quở trách là đạo hạnh của sư có vết nhiễm, sư mới sực tỉnh.


Vậy chúng ta phải đề phòng, con chim nó hót, thích nghe tiếng hót thanh thao; đang ngồi độ ngọ, gió mát phất qua thấy dễ chịu thế là thọ luồng gió mát đi qua, mình thấy mát là mình đã thọ rồi. Chúng ta phải đề phòng ngay từ bây giờ. Cái này phải tập miên mật, từng giờ từng phút thì mới xả thọ. Xả thọ thì làm thánh nhân. Còn chúng ta cứ sáu căn hàng ngày theo tập quán đắm nhiễm mà từ vô thủy đến giờ, chúng ta đã thành con người có tạp tập thì chúng ta sẽ đọa nhanh như chớp mắt.


Vì sao nói khi tình khi tưởng, khi hợp, khi ly, thay đổi lẫn nhau, nên các loài chịu nghiệp báo cũng theo đó mà lên mà xuống?


Hoặc ái hoặc yêu thì nhân của thai sanh mà tưởng thì lọt vào loài đẻ trứng, hợp mà sanh là loài ẩm ướt, phân ly thì hoá sanh ở cõi khác. Các loài này thay nhau dời đổi đủ cả chủng tử tình, tưởng, hợp và ly của cả bốn loài (thai, noãn, thấp và hoá). Cứ thế tâm chúng ta cả ngày tình tưởng xoay luôn và theo đó lâm chung cứ như thế mà đi. Lúc lâm chung một cái là thành loài sanh, trứng, thai, hoá… Cứ theo nghiệp mà lên xuống. Lên cõi trời người, xuống địa ngục. Xuống rồi lên, lên rồi xuống. thiện rồi ác, ác rồi thiện… cho nên thành cái luân hồi. Do nhân duyên ấy chúng sanh cứ tiếp nối, cứ sanh rồi chết, chết rồi sanh, học hoài không hết.


Vốn từ tánh giác minh mà bất giác phân biệt thành ra trùng điệp những đồng dị, có căn thân và thế giới, có sáu trần phân biệt, rồi lãnh thọ yêu ghét do đó tham sân khởi lên. Tham sân là vọng tưởng kiến chấp tạo nghiệp sát đạo dâm vọng, tạo nghiệp rồi thì phải trả quả cảm báo. Do nhân duyên ấy chúng sanh tiếp tục.


NGHIỆP QUẢ TIẾP TỤC


Phú Lâu Na, tư tưởng thương yêu ràng buộc lẫn nhau, yêu mãi không rời, thì những cha mẹ con cháu trong thế gian sinh nhau không ngớt, bọn nầy thì lấy dục tham làm gốc. Lòng tham, lòng yêu giúp nhau tăng trưởng, tham mãi không thôi, thì các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau; bọn nầy lấy sát tham làm gốc. Lấy thân người ăn con dê, dê chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến mười loài chúng sinh chết sống, sống chết, ăn nuốt lẫn nhau, nghiệp dữ cũng sinh ra tột đời vị lai, bọn nầy thì lấy đạo tham làm gốc.


Người nầy mắc nợ thân mệnh người kia, người kia trả nợ cũ cho người nầy; do nhân duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong đường sống chết. Người nầy yêu cái tâm nguời kia, người kia ưa cái sắc người nầy, do nhân duyên ấy, trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong vòng ràng buộc. Duy ba món sát, đạo, dâm làm gốc và vì nhân duyên đó, nghiệp quả tiếp tục [9].


Thế giới là y báo, chúng sanh là nghiệp báo. Vì sao có nghiệp báo tiếp tục để chúng sanh và thế giới cứ tiếp tục? Đức Phật chỉ rõ bởi ba nguyên nhân chánh như sau:


1. Yêu thương quyến luyến mãi không rời, nên con cái sanh nhau không ngớt, dù có giảm lượng sanh sản (birth control) cũng không giảm nổi. Thần thức quyến luyến không rời nhau, nên 500 kiếp rồi bồ câu vẫn làm bồ câu, bảy đời Phật đi qua rồi vẫn mang thân kiến đều do ái luyến, thần thức không buông xả. Đây là người nặng về lòng dục (Đức Phật dạy phải quán bất tịnh). Lòng dục là một trong ba nguyên nhân làm cho chúng sanh gánh chịu nghiệp quả tương tục.


2. Các loại thai, noãn, thấp, hóa trong thế gian (có chúng ta trong loài thai sanh đó), tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau, sát hại sinh mạng để lấy thịt ăn. Dùng dao cắt cổ xé thây, dùng điện dí vào để giết loài vật, thích đi săn thú, câu cá, bắt cua... đều là chủng tử và hiện hình của người nặng về nghiệp sát. Chính lòng sát này là nguyên nhơn khiến cho chúng sanh gánh chịu nghiệp quả tương tục.


3. Con người cướp sanh mạng của súc vật cầm thú để ăn. Con cắc kè ăn côn trùng. Rắn ăn cắc kè, đại bàng mổ rắn, thợ săn bắn đại bàng, cá lớn nuốt cá bé… đều là những dạng ‘đạo’ (ăn trộm vì chúng không muốn, nhưng chúng ta ỷ mạnh, ỷ lớn hơn, thông minh hơn nên dùng đủ mưu chước, dùng sức, dùng bẫy để lấy sanh mạng của chúng). Đây là người nặng về nghiệp sát sanh và trộm cắp. Chính sự ăn trộm này làm nhân khiến con người phải gánh chịu sự vay trả, trả vay tương tục và nghiệp dữ sanh ra cùng tột đời vị lai.


Lời Phật dạy rất hay và sâu sắc: Do người này mắc nợ thân mạng người kia, người kia trả nợ cũ cho người này, do nhân duyên đó trải trăm ngàn kiếp thường ở trong đường sống chết.


Cuộc sống của chúng ta hiện nay là để trả ân hay nhận oán, đều là luật nhân quả công bằng chi phối, chúng ta không làm chủ được. Biết được nhân quả thì chúng ta sẽ sống tự tại thanh thản hơn khi chúng ta bị mất đồ, bị hiểu lầm, bị đối xử tệ bạc tức là trước những may mắn hay không may mắn, thịnh suy, thành hoại... chúng ta không bận lòng và không gieo nhân để ở trong đường sống chết trả ân oán nữa.


Người này yêu cái tâm người kia, người kia ưa cái sắc người này, do nhân duyên ấy, trải qua trăm ngàn kiếp thường ở trong vòng ràng buộc.


Nhân tái sanh của loài người là ái nhiễm. Nàng yêu cái hạnh trượng phu của chàng. Chàng mến cái sắc đẹp mỹ miều đáng yêu của nàng, chính tư tưởng ái luyến này cột ràng chúng ta mãi đời đời, kiếp kiếp quanh quẩn và gặp nhau hoặc dưới dạng vợ chồng, bạn bè, cha mẹ, bà con, quyến thuộc nhiều đời.


Có lần Đức Phật đi khất thực ngang qua một gia đình thương gia đang ăn tiệc. Gia chủ là một người keo kiết nhưng Đức Phật biết họ cũng có phước báo và nhân duyên tới lúc ngài phải hóa độ, nên Đức Phật đến khất thực. Chủ nhà vội la lên là không biết xấu hổ khi mọi người đang dự tiệc tùng vui vẻ mà Đức Phật đứng đó ăn xin. Đức Phật đáp lại bằng bài kệ như sau:


“Ăn thịt cha giết mẹ
Ôm ấp nuôi oan gia
Xương con mẹ nhai ngon
Ai là người biết xấu hổ.”


Thịt cừu mà ông đang ăn đó là phụ thân của gia chủ tái sanh vào nên ăn như vậy là thịt cha. Phía sau nhà gia nhân đang tiếp tục mổ lợn đãi khách. Con lợn ấy là thân mẫu của ông tái sanh. Đứa con quý tử mà bà chủ nhà đang ôm trong lòng là kẻ thù của ông kiếp trước, kiếp này tái sanh vào nhà này để phá gia sản của ông để trừ nợ. Thịt gà mà bà chủ đang nhai chính là đứa con ruột của bà vừa qua đời và gá sanh vào thân gà. Gia đình dòng họ cùng máu huyết mà ăn thịt lẫn nhau thật là ác, thật là không biết xấu hổ.


Nghe Đức Phật giải thích xong, gia chủ và thân quyến tỉnh ngộ và xấu hổ vô cùng. Kính nễ sự thần thông cảm hoá của Phật, họ xin quy y với Đức Phật và từ đó trở thành một gia đình Phật tử thuần lương ủng hộ Tam bảo.


Thế nên, Đức Phật dạy hãy biến những tình ái luyến này, những ràng buộc trong ái ố này thành tình thương rộng lớn, thành thiện hữu tri thức, thành những bồ tát hạnh, thì tình thương chơn thiện mỹ đó được tán thán.


Duy ba món sát đạo dâm làm gốc và vì nhân duyên đó nghiệp quả tiếp tục: Ba thứ điên đảo thế giới, chúng sanh và nghiệp quả là duy ba món sát đạo dâm làm gốc, tức do sát đạo dâm mà có thế giới, chúng sanh và nghiệp quả.


Phú lâu na, ba thứ tiếp tục điên đảo ấy, đều do tính sáng suốt rõ biết của giác minh, nhân rõ biết phát ra có tướng, theo vọng tưởng mà kiến chấp sanh ra các tướng hữu vi núi sông, đất liền thứ lớp dời đổi, đều nhân cái hư vọng đó mà xoay vần trước sau.[10]


Tại sao ba thứ này lại do tánh giác minh, phải có nhân rồi từ nhân thành quả? Ba cái điên đảo tiếp tục tức các nhân sát đạo dâm do tánh giác minh là thế nào?


Đức Phật giải nghĩa do nhân phân biệt, rồi theo vọng tưởng kiên cố tạo sát đạo dâm phát ra các tướng hữu vi cứ thế mà nối tiếp.


Lời giải nghĩa của ngài rất đơn giản mà rõ ràng.


Vậy chúng ta còn cái phân biệt đó không? Sáu căn gặp sáu trần chúng ta nhớ hộ trì, nhớ niệm Phật, buông xả đừng chạy bám vào cảnh ngoài. Xả thọ chứ đừng có thọ. Hễ thọ là có phân biệt liền. Nhân phân biệt thấy có tướng. Nhân mắt thấy hình tướng, tai nghe âm thanh, mũi ngữi mùi thơm, thân xúc, ý biết, chạm với sáu trần mà thọ cái tướng rồi khởi vọng tưởng phân biệt, tức là ở 12 nhân duyên rồi, là có xúc rồi đến thọ, ái. Hễ có ái tức có kiến chấp thì sẽ sanh ra thủ, rồi liền có sát đạo dâm vọng. Thế là cái quả đem đến là các tướng hữu vi, đất liền, người vật, ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, thắt nút cứ thế tiếp tục sanh ra. Nhân đây những  hư vọng của cuộc đời mình cứ hết rồi lại bắt đầu rồi cứ nối tiếp mãi cho đến ngày nay chưa có dừng.


Cách tu tập: do phân biệt thấy có tướng, gặp sáu trần là khởi phân biệt, bây giờ chỉ cần quán biết tất cả là huyễn. Cảnh ngoài là huyễn mình buông được, còn thân này phải quán bất tịnh để tỉnh ra, buông ngã ái, ngã kiến. Quán hơi thở để điều hoà tinh thần, đừng để loạn động. Buông rồi thì tự nhiên đối với cảnh ngoài mình không thọ, nếu còn ngã thì dặn dò nhắc nhở thế nào thì nó vẫn cứ thọ. Còn mình tỉnh ra và buông được thân này, không chấp thì sẽ có xả thọ.


Đức Phật đã giảng bày rõ khiến cho chúng ta thông đạt cái vọng và cái giác.


Thông đạt cái vọng vì cái vọng là mê, thông đạt cái giác vì cái giác là ngộ. Do vậy, mình đừng có sợ, đừng có lo mình không thành Phật, bởi vì cái mê này là hư vọng mà tánh Phật là chơn thật. Hư vọng thì trước sau nó phải tan. Đây là khiến tri kiến thanh tịnh.


Thế nào là khiến cho tri kiến thanh tịnh? tức thấy đúng như sự thật. Mình biết mê không có gốc, vọng nó bản không, mê nó không có gốc mà tánh Phật là sự thật. Tánh Phật là sự thật hiển nhiên thì chỉ có một việc là an định vào tánh Phật mà buông những cái mê vọng của mình ra. Đừng nắm lấy vọng thân, vọng tâm và vọng cảnh nữa, đừng cho là thật, đừng sống với nó nữa, thế là tri kiến thanh tịnh.


Thanh tịnh là biết đúng sự thật. Biết đúng sự thật thì sống với tánh Phật, còn ba cái vọng thân, tâm và cảnh kia thì bỏ ra.


Một ngày không tham, sân, si là một ngày thành Phật và phải liên tiếp thành Phật. Nếu vẫn còn tham, sân, si ngày khác thì chưa phải đã tỉnh. Phải sạch năm lớp vô minh tức năm ấm mới trở về với tánh Phật được. Gốc vốn không đồng, không dị mà thành ra đồng dị, dị đồng. Đây là khởi nguyên có các tướng hữu vi, do đó lại bắt đầu có ba tướng kết quả tiếp tục nghĩa là từ không mà thành có và cái có tiếp tục không dứt.


1C. CHỈ RÕ GIÁC KHÔNG SANH MÊ


Phú Lâu Na bạch: “Nếu cái diệu giác đó, bản tính là diệu minh, cùng với tâm Như Lai, không thêm không bớt, mà không cớ gì bỗng nhiên lại sinh ra các tướng hữu vi núi sông, đất liền; vậy Như Lai hiện nay đã chứng được bản giác diệu minh, không có phân biệt, thì đến lúc nào lại sinh ra núi sông, đất liền và các tập lậu hữu vi?”.


Phật bảo Phú Lâu Na: “Ví như người mê, nơi một xóm làng, lầm phương Nam làm phương Bắc, thì cái mê ấy, lại là nhân mê mà có hay nhân ngộ mà ra?”


Phú Lâu Na bạch: “Người mê như vậy, cũng không nhân mê, cũng không nhân ngộ. Vì sao? Mê, vốn không có gốc, làm sao lại nhân mê? Còn ngộ, không phải cái sinh ra mê, làm sao lại nhân ngộ?”


Phật dạy: “Người mê kia, chính trong lúc mê, bỗng có người ngộ chỉ bày cho được ngộ. Phú Lâu Na, ý thầy nghĩ thế nào? Người ấy giải trừ được cái mê đi, thì đối với xóm làng đó, còn có sanh mê nữa không?”


- “Thưa Thế Tôn, không”.


- “Phú Lâu Na, Như Lai mười phương thì cũng như vậy. Cái mê đó không có gốc, tính nó rốt ráo là rỗng không; xưa vốn không mê, chỉ hình như có mê, có giác; giác được cái mê, thì cái mê diệt và giác không sinh ra mê.


Cũng như người lòa thấy hoa đốm giữa hư không, nếu trừ được bệnh lòa, thì hoa đốm nơi hư không diệt mất. Bỗng có người ngu, ở chỗ hư không mà hoa đốm kia đã diệt rồi, lại mong đợi hoa đốm sinh lại. Thầy xét người ấy, là ngu hay là trí tuệ?”


Phú Lâu Na bạch: “Hư không vốn không có hoa đốm, vì hư vọng mà thấy có sinh diệt; thấy hoa đốm diệt mất nơi hư không đã là điên đảo rồi; lại còn muốn bảo nó sinh lại, thì thật là điên dại; làm sao còn gọi là người điên như vậy, là ngu hay là trí tuệ?”.


Phật dạy: “Thầy hiểu như vậy, làm sao còn hỏi tính giác diệu minh, không có phân biệt của chư Phật Như Lai, lúc nào lại sinh ra núi sông, đất liền.


Lại như quặng vàng lộn với vàng ròng, khi vàng đã luyện thành ròng rồi, thì không xen lộn được nữa; cũng như cây đã đốt ra tro, thì không thành cây được nữa; Bồ đề Niết Bàn chư Phật Như Lai thì cũng như vậy. [11]


Đây là hoàn thành câu 1 (gồm ba phần a.b.c.).


Phú lâu na bạch Phật: Tâm con đồng với tánh Phật đây là một tánh giác sáng suốt không thêm không bớt như thế mà bây giờ hốt nhiên chúng con thấy có núi sông đất liền. Vậy bao giờ Đức Phật trở lại thành chúng sanh giống như chúng con đây?


Thật ra không phải tôn giả Phú lâu na không biết vấn đề, ngài biết nhưng ngài hỏi để rành mạch vấn đề ra, vì thương chúng sanh đời vị lai mà đặt câu hỏi cho chúng ta hiểu thế thôi.


Đức Phật nói là giác không sanh mê nhưng sao chúng con đang sống đồng tánh giác đó mà chúng con lại thấy núi sông, bị phiền não chi phối, vậy mai mốt Đức Phật cũng giống các con sẽ bất giác vô minh phiền não chi phối?


Đây Đức Phật không trả lời thẳng, xem cái mê này ở đâu ra, ngài chỉ đưa bốn câu hỏi, bốn ví dụ để Phú lâu na trả lời:


-Người lạc đường được người chỉ đường hay có nevigator (máy chỉ đường) chỉ rõ lối đi rồi thì còn bị lạc nữa không? 


-Người nhặm mắt thấy hoa đốm, khi hết nhặm còn thấy hoa đốm nữa không?  


-Vàng đã lọc còn trở lại thành đất nữa không? 


- Cây đã đốt thành tro bụi rồi có thể thành cây lại nữa không?


Những câu hỏi, những ví dụ của ngài quá rõ ràng sáng suốt.


Đức Phật để Phú lâu na tự trả lời những câu hỏi và rồi tự nhận ra ý nghĩa qua câu trả lời của mình.


Mê không gốc rễ, không có hình tướng, không thể lấy những cái mê ra được. Rõ ràng mê không tự thể, lấy gì để gọi đó là mê?


Nếu nó có gốc có rễ thì nó không thể nào là cái hư vọng. Chỉ vì mê mà nhận cái thân của mình, mà làm thành cái thân. Vì mê nên ăn cơm uống nước tạo thành thân, vào cái tử cung của mẹ, lấy đất, nước, gió, lửa làm thân, nhưng mê là cái không có gốc. Ví dụ hoa cúc là do giống hạt cúc mà thành cây hoa. Cây mồng tơi, rau muống là do hạt mồng tơi, rau muống mà thành. Còn con người do hạt gì? Do mê.


Tu chỉ để tỉnh ra, tu để thấy chân tâm, buông những cái mê, những cái hư vọng. Mê mà có ai chỉ ra thì ngộ, hết mê, thì không còn mê nữa, như người lạc đường được chỉ thì rành đường, như hết nhặm thì mắt tỏ, như vàng lọc thì không còn cát và như cây đã đốt thì không thành cây nữa. Nhưng bây giờ nói lấy cái mê không biết đường thì không lấy ra được, vì khi đã biết, đã giác rồi thì nó tan. Cũng thế do mê mà vọng kiến sát đạo dâm vọng, mê không có gốc. Tỉnh ra là hết như những ví dụ trên.


Hỏi thành Phật rồi bao giờ thành chúng sanh, cũng giống như hỏi có chánh kiến rồi bao giờ lại có vọng kiến, bao giờ giác trở thành cái mê, thành chúng sanh?


Chỉ bởi tâm đang giác mà mê đi như thế thì gọi là vọng kiến. Đức Phật xuất hiện ra đời chỉ có một mục đích, cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, là chỉ cho chúng ta nhận được nghĩa này.


Thân chúng sanh với thân Phật vẫn như nhau không khác. Thấy, nghe, ngữi, nếm, xúc, biết đều là tánh Phật, nhưng chỉ bởi khi tỉnh thì gọi là chánh kiến mà mê thì là vọng kiến. Nhưng cái tánh của mê nó là cái không có, chúng ta mê cứ thấy thân này là mình, mình tỉnh ra thì cái mê đứng đâu? Nên thiền sư Huyền Giác nói: “Thật tánh vô minh là Phật tánh”.


Tỉnh ra thì hết, thì thành Phật, cho nên gọi tánh rốt ráo vốn không mê. Cái mê là cái không có. Tánh của chúng ta vốn là tánh Phật, tánh từ bi hỉ xả, nhưng bởi mình huân tập cái vọng. Ví dụ chúng ta đang bình an, vui vẻ, chợt có người bảo chị chơi xấu lắm, không có tốt, kiêu căng... Tự nhiên chợt nghe tiếng nói rớt vào tai như thế, thế là mình nổi giận lên, sân giận nó bốc phực lửa lên. Thật ra vốn không có cái sân, hồi nảy mình vẫn bình an, ca hát vui vẽ mà. Nếu giác tỉnh, không nói lời trả đũa gây oán lại mà dùng pháp tứ vô lượng tâm (từ bi hỉ xả) quán chiếu thì tham sân tan, mặt mày tươi tắn xinh đẹp trở lại, nên mê không gốc.


Ngã ái bốc lên thì hình như có sân, có giác, có nổi giận, nhưng nếu mình tỉnh ra, âm thanh là cái hư vọng, là trò chơi của động tĩnh, là tuần nghiệp người mà ứng hiện, là động tĩnh nơi thần kinh, thì chúng ta tỉnh ra. Lúc ấy cái sân lại tan đi, nó là cái không có, mình tỉnh ra thì nó tan ngay. Cái ngu của mình quá đáng để cho một cái hư vọng làm chủ mình. Chúng ta tỉnh ra thì nó tan liền, cho nên chúng ta phải biết xấu hổ, nó là cái không có mà cứ để cho nó ngự trị và làm chủ, chúng ta có năm lớp mê ngũ trược[12]  mà nó là năm cái hư vọng, tỉnh tan được cái nào thì đỡ cái ấy.


Chánh kiến rồi thì không trở về vọng kiến nữa. Cái thấy nó không sai. Xưa vốn không mê, chỉ hình như tùy duyên tuần nghiệp hiện lên có mê có giác, tánh giác của chúng ta nó vẫn bất biến, vẫn diệu.


Hễ giác sanh thì mê diệt. Sự thật quá rõ ràng. Mê hay ngộ chỉ là công dụng sai hay đúng của chúng ta, vì mê nên quên tánh của chúng ta đi. Nay tỉnh cái tánh của chúng ta thì là một. Công dụng mà dùng sai thì Đức Phật gọi là mê. từ trên Đức Phật đã giảng giác minh tánh của nó là minh diệu muốn minh thêm cái giác, cho nên khởi phân biệt thành ra ngay phân biệt là vọng tâm đối với vọng cảnh rồi, là tâm tự muốn phân biệt, còn kiến hoặc là nó có cảnh hiện ra rồi gọi là kiến hoặc.


Hằng hà chúng sanh ở trong đường mê mà cái mê là cái không có. Nếu kêu chúng ta nắm cổ thằng mê để đưa ra đây cho chúng ta xem, chúng ta không nắm được. Tâm của mình nó tự mê. Chứ không có một cái mê ở đâu nó chạy vào ám vào chúng ta. Tự mê rồi tâm mình tự giác, tự tỉnh ra, chứ nó không ở đâu nó chạy vào.


Đã gọi là mê, tức hư vọng, không gốc. Mê nếu thành có gốc thì đâu có nói nó là vọng, như người lộn phương hướng chỉ ra là hết. Nếu nó thật có gốc thì nó là cái có thật. Mê thì tự nó không có gốc mà ngộ thì không sanh mê. Phần này rất khó.


Câu trả lời của Phật cũng làm chúng ta khó hiểu bởi vì rõ ràng chúng ta đang mê, chúng ta đang ở trong đường mê mà Đức Phật bảo cái mê là cái không có. Chúng ta thật khó hiểu. Nó là cái không có mà hiện tại nó đang chi phối chúng ta, nhưng thật ra nếu tỉnh thì hết.


Có tin cái mê vốn không có không? Chúng ta nhớ tranh luân hồi vẽ hình con gà, rắn, heo trên nền màu gì? Màu xanh dương là màu của hư vọng.[13]  Tham, sân, si là trung tâm điều khiển chúng ta lên xuống bảy đạo đó, nhưng chúng là mê, nếu tu và giác tỉnh thì chuyển hoá tham, sân, si thành vô tham, vô sân và vô si.


Thế nên mê không có gốc mà ngộ thì không sanh mê, chỉ tỉnh ra là xong, là biến mất, là mát mẽ, là hết, chứ nếu nó có gốc thì chúng ta còn hì hục đào cái gốc, đàng này nó là cái không có.


CÂU 2A. CHỈ CÁC ĐẠI CÓ THỂ DUNG NHAU


Phú lâu na, thầy lại hỏi về địa, thủy, hoả, phong, bản tính viên mãn dung hoá, cùng khắp pháp giới, nghi sao tính nước, tánh lửa lại không lấn nhau, diệt nhau và nêu ra hư không và địa đại đều cùng khắp pháp giới, lẽ ra không dung được nhau.


Phú lâu na, ví như hư không, bản thể không phải các tướng mà không ngăn cản các tướng phát huy. Vì sao? Phú lâu na nơi hư không kia mặt trời soi thì sáng, mây kéo thì tối, gió lay thì động, trời tạnh thì trong, hơi đọng thì đục, bụi nổi thì mù, nước đứng thì ánh. Ý thầy nghĩ thế nào? Các tướng hữu vi khác nhau như vậy, nhân các cái kia mà sanh, hay nhân hư không mà có?


Phú lâu na nếu nhân cái kia mà sanh, thì khi mặt trời soi, đã là mặt trời sáng, mười phương thế giới đều thành sắc của mặt trời làm sao giữa hư không, lại còn thấy mặt trời tròn. Nếu là hư không sáng thì hư không phải tự soi lấy, làm sao lúc giữa đêm mây mù, lại không sinh ra sáng chói. Vậy nên biết rằng cái sáng đó, không phải mặt trời, không phải hư không và cũng không ra ngoài hư không và mặt trời. Xét cái tướng vốn là vọng, không thể chỉ bày, cũng như muốn hoa đốm hư không kết thành quả hư không, làm sao còn gạn hỏi cái nghĩa lấn diệt lẫn nhau?


Xét cái tính vốn là chân, chỉ là tánh giác diệu minh, vốn không phải là nước hay là lửa, làm sao còn hỏi về nghĩa không dung được nhau?


Bản tính diệu minh chân thật thì cũng như vậy. Thầy phát minh hư không thì có hư không hiện ra; địa thủy hoả phong mỗi mỗi phát minh thì mỗi mỗi hiện ra, nếu cùng phát minh thì cùng hiện ra.


Chỉ Trái Với Giác Tính Hợp với Trần Tướng:


... Phú lâu na, thầy đem cái sắc, cái không mà lấn cướp lẫn nhau nơi Như lai tạng thì Như lai tạng theo thầy làm sắc, làm không, cùng khắp pháp giới; vậy nên trong ấy, gió thổi thì động, hư không thì lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Chúng sanh mê lầm, trái với giác tính, hợp với trần tướng, cho nên phát ra trần lao, có các tướng thế gian.


Tính Diệu Minh Hợp với Như Lai tạng:


Tôi lấy tánh diệu minh không diệt không sanh, hợp với Như lai tạng, thì Như lai tạng chỉ là tánh giác diệu minh, soi khắp pháp giới. Vậy nên trong ấy, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện ra nhỏ, đạo trường bất động cùng khắp thế giới mười phương, thân trùm cả hư không vô tận mười phương, nơi đầu một mảy lông, hiện ra cõi bảo vương, ngồi trong vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn; diệt trần tướng, hợp giác tính, nên phát ra tánh giác chân như nhiệm mầu sáng suốt[14] .


Phú lâu na hỏi Đức Phật dạy bốn đại: Địa, thủy, hỏa, phong vì sao dung hóa khắp các pháp giới; nhưng trong thực tế chúng con thấy bốn đại có tánh đối kháng lấn lướt nhau rõ rệt? nghĩa là tại sao nước và lửa khắp pháp giới mà thường xưa nay nước là làm tắt lửa, đấp đất thành gò nhưng sóng thần trào thì nhà cửa đất đá đều tan. Chúng ta cũng thấy chữa cháy là nhờ nước. Đun nước hoài thì cạn. Vậy sao giờ Như lai nói đất, nước, gió, lửa, không, kiến, thức đại ở chung nhau và ở khắp pháp giới. Tại sao chúng không lấn lướt nhau?


Phật trả lời: Đất, nước, gió, lửa, không, kiến, thức đầy khắp pháp giới mà tánh hư không, không bị choán mất tiêu vong, vì vậy nên trong phần Bốn khoa và thất đại, Như Lai nói: Tánh sắc là chân không. Hư không có đủ tất cả tánh chất của đất, nước, gió, lửa, không, kiến, thức đại, vì vậy Như Lai mới nói: Tánh không là chân sắc, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng hay biết, theo nghiệp mà phát hiện.


Hỏa đại đầy khắp hư không mà không thiêu cháy rụi thế gian. Vì vậy, Phật nói: Tánh hỏa là chân không. Hư không vốn không lửa nhưng lúc chúng sanh cần thì lửa có trong hư không. Một người bật hột quẹt thì một người có lửa, 10 phương bật hột quẹt nhóm lửa thì 10 phương có lửa. Lửa ở khắp thế gian đâu có chỗ ở riêng biệt nào, cho nên Phật dạy: Tánh không là chân hỏa, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng hay biết, theo nghiệp mà phát hiện.


Thủy đại đầy khắp pháp giới mà không dập tắt lửa, không nhấn chìm tất cả thế gian trong trận đại hồng thủy, vì vậy Như Lai nói: Tánh thủy là chân không. Pháp giới không đại, vốn không phải là thủy đại, vậy mà trong không đại khắp đầy thủy đại, cứ đào giếng là có nước, cho nên Phật dạy: Tánh không là chân thủy, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng hay biết, theo nghiệp mà phát hiện.


Các đại khác cũng thế. Tánh các đại vốn không ngăn ngại, không lấn lướt, khống chế lẫn nhau. Hiểu được thâm ý của các đại thì chúng ta sẽ hiểu được ý nghĩa của Bát nhã Tâm kinh mà hàng ngày chúng ta tụng: Sắc chẳng khác không; không chẳng khác sắc. Sắc tức là không; không tức là sắc.


Ý của Đức Phật rằng nói về hình tướng các đại: Đất, nước, gió, lửa, không, kiến, thức này là hư vọng, là hoa đốm, là không, mà đã là không, đã hư vọng thì đâu có lấn lướt nhau. Nói về thể tánh của tất cả các đại thì đều là Như lai tạng, là chân không. Các đại đều đồng là một tánh thể Như lai tạng, tánh thể chân không nên có thể dung nhau. Chúng ta bị khó hiểu. Bởi lẽ mình thấy hoa, ly, chuông, micro đây, đều là hư vọng, chỉ có Như lai tạng, chân không là thật thôi. Biết hư vọng đấy nhưng hoa vẫn là hoa và ly vẫn là ly nên hai cái này không dung nhau, xuyên qua được.


Đức Phật trả lời cho Phú lâu na hiểu: “Đó là thị tri kiến Phật”. Đức Phật chỉ chỗ Phật tuệ Đức Phật đã thấy, do đích thân Phật tu cho nên ngài mới thấy được sự thật. Sự thật là tất cả hình tướng thế gian đều là mê, chứ không phải là thật, nhưng những hình tướng thế gian đây cũng đều là Như lai tạng, là chân không, là diệu chân như tánh. Chúng ta theo nghiệp báo mỗi loài thấy cảnh giới của mình, chứ không phải là sự thật, đã gọi là nghiệp báo là không thật. Thành Phật rồi mới thấy được sự thật rốt ráo. Đây là đại dụng của Đức Phật mà Kinh Hoa Nghiêm gọi là sự sự vô ngại.


Tánh các đại là chân không, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng hay biết, theo nghiệp mà phát hiện. Tuần nghiệp phát hiện ở đây là có tánh chất duyên sanh của nó. Bởi do duyên sanh của nghiệp nào thì hình như thấy hiện hình tướng các đại lấn lướt. Đã là duyên sanh, là nghiệp, là mang kiếng đen nên không pháp nào có tự thể độc lập, cố định đích thực của riêng mình (không phải đất, nước, gió, lửa ở thân người là cố định thân người hoài). Chỉ là những cái hộp theo duyên hiện, hộp vuông tròn, không cố định là đích thật, là có vuông hay tròn, chỉ như huyễn mà hiện bày duyên sanh.


Từ tạng thức, Đức Phật thấy các tướng là không, là duyên sanh theo nghiệp, (chúng ta chỉ biết lơ mơ trên bề mặt của ý thức), và Đức Phật cũng thấy các tướng là Như lai tạng của mình, cho nên các ngài đi xuyên qua tường được, các ngài vào lửa, vào nước… không bị cản, không bị đốt và không bị chìm. Còn chúng ta hiểu đất, nước, gió, lửa là giả, nhưng vẫn thấy vách tường, là vách tường là chướng ngại nên muốn đi ra cửa thì tránh ra lựa chỗ trống mà đi. Đi tới vào vách tượng là đụng u đầu ráng chịu. Từ tạng thức thâm sâu, chúng ta vẫn chưa nhận tướng huyễn và tánh chân nên còn ngăn ngại, còn lấn lướt nhau.


Chúng ta mê vọng thấy ra các thứ cảnh của bốn khoa và bảy đại, thấy ra hư không, cảnh giới. Mỗi loài theo nghiệp của mình mà tự thấy. Chư Phật thấy đất, nước, gió, lửa là không thật, đồng một thể, còn chúng ta chỉ hiểu sơ chứ thấy đất, nước, gió, lửa vẫn bằng đất, nước, gió, lửa, nó không phải thân mình, vì vậy đi qua tường kia mình đi không lọt bởi vì trong tạng thức mình vẫn còn có cái cố chấp cho nó là đất nên chướng ngại.


Chư Phật biết, các ngài cứu cánh rõ biết đất là cái không thật. Đất do kết ám, lửa do sân mà có, gió là do động mà lập, nước là do ái mà thành. Các ngài đã sạch những tham, sân, si, ái nhiễm. Các ngài đã thấy đất, nước, gió, lửa là do tâm tạo nên qua lọt tường như đi trên nước, như đi trên đường rộng, nên vào nước không chìm mà cứu được người chìm, vào lửa không cháy mà cứu được người chết cháy... Đây là ý nghĩa 32 ứng thân của Quan Thế Âm bồ tát:


Nếu người nào trì danh hiệu Quan Thế Âm bồ tát, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, nhờ sức oai thần của bồ tát.


Nếu bị nước cuốn trôi, xưng danh hiệu Quan thế âm bồ tát liền đặng đến chỗ cạn...


Nếu người sắp bị hại, xưng danh hiệu Quan Thế âm bồ tát, thời dao gậy của người kia cầm gẫy từng khúc, liền đặng thoát khỏi.”[15]


Hiểu được ý này thì chúng ta hiểu được ý nghĩa của kinh Phổ Môn mà chúng ta thường tụng hàng ngày.


2B. NGHI GIÁC TÍNH VÌ NHÂN GÌ MÀ CÓ VỌNG


Phú Lâu Na bạch:“Chân tâm viên giác diệu minh của con và của Như Lai, đều viên mãn không hai, mà con, trước kia mắc vọng tưởng vô thỉ, ở lâu trong luân hồi, nay được thánh thừa, còn chưa rốt ráo; Thế Tôn, thì khắp tất cả các vọng đều diệt trọn, chỉ có diệu dụng tính chân thường. Xin hỏi đức Như Lai, hết thảy chúng sinh, vì nhân gì mà có vọng, tự che tính diệu minh, mà chịu chìm đắm như vậy?”


Chỉ Mê Vốn Không Nhân:


Phật bảo Phú Lâu Na: “Thầy tuy trừ được lòng nghi, nhưng còn những điều lầm chưa dứt hết. Nay tôi lại đem những việc hiện tiền thế gian mà hỏi thầy. Há thầy không nghe trong thành Phất La Phiệt, có anh Diễn Nhã Đạt Đa, buổi mai lấy gương soi mặt, bỗng nhiên ưa cái đầu trong gương, lông mày, con mắt có thể thấy được, rồi giận trách cái đầu mình, sao lại không thấy mặt mày, cho là giống yêu quái, rồi không cớ gì phát điên bỏ chạy. Ý thầy nghĩ thế nào, người đó vì nguyên nhân gì, vô cớ phát điên bỏ chạy?”.


Phú Lâu Na bạch: “Tâm người ấy điên, chứ không có duyên cớ gì khác”.


Phật dạy: “Tính diệu giác viên mãn sáng suốt, bản lai là diệu minh cùng khắp; nếu đã gọi là vọng, thì làm sao có nhân, nếu có nguyên nhân, thì làm sao gọi là vọng? Chỉ tự các vọng tưởng xoay vần làm nguyên nhân cho nhau, theo cái mê, chứa cái mê, trải qua kiếp số như vi trần; tuy Phật phát minh, còn không biết trở về. Nguyên nhân cái mê như vậy, là nhân mê tự có, biết cái mê không có nhân, thì cái vọng không chỗ nương tựa, còn không có sinh, thì muốn đem cái gì mà làm cái diệt. Người được đạo Bồ đề như người tỉnh giấc kể chuyện trong chiêm bao; tâm dầu rõ ràng, nhưng không thể có nhân duyên gì lấy được những vật trong chiêm bao; huống nữa, cái mê lại không có nhân, vốn không có gì cả. Như anh Diễn Nhã Đạt Đa trong thành kia, đâu có nhân duyên, mà tự sợ đầu mình bỏ chạy, bỗng nhiên hết điên, thì cái đầu đâu phải từ ngoài đưa tới; dầu chưa hết điên, cái đầu cũng không hề mất. Phú Lâu Na, tính của cái vọng là như vậy, làm sao còn có nguyên nhân được”.


Dứt Hết Các Duyên Thì Hết Điên:


“Thầy chỉ không theo phân biệt ba thứ tiếp tục nơi thế gian, nghiệp quả, chúng sinh, thì ba duyên đã đoạn rồi, ba nhân không sinh ra nữa, và tính điên của anh Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm ông tự hết. Hết, tức là tâm tính Bồ đề trong sạch sáng suốt, bản lai cùng khắp pháp giới, không do ai đưa lại, nào cần gì phải tu chứng nhọc nhằn vất vả.


Ví như có người, ở nơi áo mình, buộc một hạt châu như ý, mà không hay biết, nên phải xin ăn rong ruổi phương xa, nghèo nàn rách rưới; tuy người ấy thật nghèo nàn, nhưng hạt châu không hề bị mất; bỗng nhiên có người khôn, chỉ hạt châu ra cho, thì người ấy muốn gì được nấy, thành giàu có lớn, rồi mới ngộ được hạt châu quý hóa ấy, không phải do ở ngoài đưa tới”[16] .


Phú lâu na hỏi: Diệu tâm sáng tỏ của con và Như lai đều viên mãn không hai, tức vốn chân tâm bản tánh thanh tịnh, sao chúng con lại có vọng tự che khuất diệu tâm cam chịu chìm đắm? Sao lại chúng con hốt nhiên mọc ra cái sai lầm này?


Đức Phật trả lời qua những câu trên tức 1A, 1B, 1C, và 2A  rồi, Phú-lâu-na dù dứt trừ lòng nghi, nhưng vẫn còn mê hoặc chưa dứt sạch. Nên bây giờ ở câu 2B Đức Phật đưa thêm một thí dụ nữa về chàng Diễn-nhã-đạt-đa để cho thấy mê không có gốc.


Ở câu 1C, Đức Phật đã cho thí dụ về người lạc đường, người nhặm thấy hoa đốm, vàng đã lọc và cây đã đốt không thể thành cây lại, cũng giống như đã giác thì không sanh mê, đã thành Phật thì không thành chúng sanh nữa.


Đức Phật trả lời đã gọi là mê, tức là không thật. Nếu nó thật có gốc thì đâu có nói hư vọng. Nếu nó thật có gốc thì nó là cái có thật. Còn bây giờ nó là cái mê, cái không có, cái hư vọng cho nên nó không có gốc. Mê thì tự nó không có gốc mà ngộ thì không sanh mê.


Câu trả lời của Đức Phật thật khiến chúng ta khó hiểu, bởi vì rõ ràng chúng ta đang ở đường mê. Chúng ta hiện đang ở trong đường mê, thế mà Đức Phật bảo cái mê là cái không có. Chúng ta thật là khó hiểu. Nó là cái không có mà hiện tại bây giờ nó đang chi phối chúng ta. Đức Phật bảo mê là cái không có, chỉ cần tỉnh ra là xong, chứ nếu mà nó có gốc thì mình còn mượn cuốc xẻng hì hục đào cái gốc. Đàng này nó là cái không có, gọi là cái mê.


Đức Phật cho ví dụ chàng Diễn-nhã-đạt-đa soi gương thấy mặt mình trong gương bảnh trai quá, tóc xanh mượt, mắt thanh tú, mày ngài, mũi cao. Soi xong, bỏ gương xuống, chàng không thấy đầu nữa, vội la toáng lên mất đầu.


Diễn-nhã-đạt-đa chạy giáp vòng làng xóm la lên “Tôi mất đầu rồi huhu… Tôi không còn đầu nữa”. Ai cũng cười nói ông này điên rồi. Đầu trên cổ mà không thấy, nói tôi mất tôi rồi?


Chúng ta có phải chàng Diễn-nhã-đạt-đa không?


- Ông A mất ngày….


- Mẹ tôi bịnh nặng vừa qua đời rồi…


- Ngày nào đó chúng ta cũng sẽ từ giả cõi đời này...


Chúng ta cứ có khái niệm cho mất thân là mất đầu. Mất đâu? đầu mình còn đây.


Nay hỏi cái điên tại do đâu? Do gương? Sao chúng ta cũng soi gương, mà chúng ta không thấy lạ kỳ như chàng Diễn-nhã-đạt-đa.


Tại sao một mình chàng Diễn-nhã-đạt-đa lại điên?


Gốc đâu ra cái điên ấy? - Không có.


Nên Đức Phật bảo mê không có gốc như chàng Diễn-nhã-đạt-đa soi gương. Đức Phật bảo chúng ta đều như những chàng Diễn-nhã-đạt-đa cả.


Tánh Phật của chúng ta đây mà bây giờ lại quên mất tánh của mình, rồi bây giờ lại đi tìm, đi tu để thành Phật. Chúng ta vốn bản lai là Phật, quên cái ông Phật của mình, rồi bây giờ đi tu để cầu thành Phật, có giống như chàng Diễn-nhã-đạt-đa không?


Mê không có thật, bây giờ tỉnh ra là hết, chứ không phải mê có thật, có gốc, có căn bản, nó là cái hư vọng, cho nên chỉ cần tỉnh ra là xong.


Tánh mình vốn thường lạc ngã tịnh, nên không phải cầu cái gì ở đâu cả. Cứ an định vào tánh của chúng ta. Nhưng muốn yên an định vào tánh của mình, trên thực tế chúng ta phải buông xả. Muốn buông xả thì phải quán tướng các pháp là hư vọng. Đây là quyền tạm của 12 năm đầu Đức Phật cho pháp thoại A-hàm, để buông xả tham, sân, si, bớt chấp thủ và nhẹ nhàng an tĩnh.


Mê thành vọng kiến mà tạo sát đạo dâm vọng. Mê không có gốc, chỉ cần tỉnh là hết. Thế giới, sơn hà, đại địa, sáu cõi luân hồi là từ vọng kiến biệt nghiệp và đồng nghiệp biến hoá ra.


Do nhìn trừng trừng vào hư không, mỏi mắt thấy ra vô số hoa đốm. Hoa đốm do đeo nghiệp mỏi mà thấy ra. Chúng ta là loài người, nghiệp người nên có cái thấy của người. Đeo nghiệp chuồn chuồn, bươm bướm, mèo thấy cảnh giới của chuồn chuồn, bươm bướm, mèo. Đức Phật hiển thị tất cả những cảnh mình đang thấy ra đây là tâm của mình, do mình biến hoá ra đấy thôi.


Tâm lành thì sanh vào cõi trời, có ông trời có những vui vẻ, chơi đùa của trời.


Tâm xấu thì sanh vào địa ngục, có con mắt, có thân thể, có đau khổ của địa ngục, thấy các cảnh địa ngục. Thật ra, tất cả đẹp xấu khổ, vui chỉ là vọng. Tâm chúng mình hư vọng biến hoá ra. Tự mình vọng kiến thấy ra chứ không thật.


Tỉnh ra thì ngay nơi chúng ta đây chứ không thay hình đổi dạng gì cả, như chàng Diễn-nhã-đạt-đa tỉnh ra thì đầu trên cổ đó.  Đức Phật đã cho một ví dụ rất xuất sắc. Chúng ta chỉ thích nhìn đầu trong gương, nên trong phòng khách, phòng ăn, nhà tắm, xe hơi mà ngay ví tiền của các nàng cũng đều có gương để soi, để đáp ứng nhu cầu thích soi gương đó. Chúng ta không thích nhìn đầu thật trên cổ. Đây là nguyên nhân sâu xa. Còn nguyên nhân nông cạn là rên la khóc hu hu... vì mất hết đầu này sang đầu khác.


Nhìn đầu trong gương là gì? Nghĩa là chúng ta chỉ thích: 


1. nhìn chúng ta và cuộc đời của chúng ta qua thần kinh của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý;  


2. nhìn chúng ta và cuộc đời của chúng ta qua bóng ảnh hiện nơi thần kinh còn làm việc (chưa chết); 


3. nhìn chúng ta và cuộc đời của chúng ta qua nghiệp làm người, ứng lượng sở tri, tuần nghiệp phát hiện.



Đương đương thường hữu nhân cố
Đương đương thường trụ pháp thân.


Lúc nào chúng ta cũng có nhân Phật cả. Lúc nào chúng ta cũng có thường trụ pháp thân cả. Tại mình quên, lại la lên không có tánh, rồi cho là chúng ta phàm tình quá, đọa lạc quá, phải đi tìm, đi tu để thành Phật, đi nghe giảng pháp để cầu thành Phật, trong khi mình có mà lại quên.


Thần Tán Thiền sư nói:


Ánh trăng mầu nhiệm, chiếu sáng căn trần

Hiện rõ căn trần, không cầu văn tự

Tĩnh tâm trong suốt, vốn đã viên thành.

Rời bỏ vọng tưởng, lập tức thành Phật.


Tâm trong suốt của mình vốn đã viên thành. Rời bỏ vọng tưởng tức rời cái mê thì lập tức thành Phật, sẽ thấy đầu ngay trên cổ, không dùng văn tự giải thích gì cả.


Tổ Đơn Hà nói: đối với những thâm nghĩa này, phàm phu chúng ta không hiểu, nhưng với người chứng quả thì thấy được nghĩa này.


Còn Đức Phật trả lời những vấn đề này thế nào? Mê không có gốc nên không cần giảng, chỉ cần cho một ví dụ về chàng Diễn-nhã-đạt-đa là đủ.


Có một lần, tôn giả Xá Lợi Phất đến hang động của ngài Ca Diếp mà thưa rằng có một nhóm ngoại đạo vừa hỏi tôn giả Xà lợi Phất là:


“Sau khi nhập niết-bàn, Như-lai có sanh tử,
Sau khi nhập niết-bàn, Như-lai không có sanh tử,
Sau khi nhập niết-bàn, Như-lai có và không có sanh tử,
Sau khi nhập niết-bàn, Như-lai chẳng có và chẳng không có sanh tử?


Tôn giả Xá lợi Phất không trả lời được, vì tôn giả chưa nghe Như lai nói về những ý này, nay mong thỉnh Đại huynh Ca Diếp giáo giới giùm. Ca Diếp trả lời: Như lai đã sạch hết ái chấp. Tâm không còn phiền não, vĩnh viễn giải thoát. Sự chứng ngộ của ngài rộng lớn sâu xa, không thể dùng mê tình để hỏi, cũng không thể dùng ngôn ngữ để đáp, chỉ vì vấn đề này không nên hỏi, nên Thế Tôn thường không giải thích”.[17


Thế thì chúng ta thấy có những vấn đề Đức Phật không giải thích dài dòng.  Ở đây cũng thế, mê là không thật, nên không giải thích, chỉ đưa ra một ví dụ về chàng Diễn-nhã-đạt-đa là đủ rồi. 

 

1 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 278.
2 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 282-6.
3 TN Giới Hương., Vòng Luân Hồi, tr. 125.
4 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 290-1.
5 Nghi Thức Tụng Niệm Hàng Ngày, Kinh A-di-đà, HT Thiện Thanh dịch, Chùa Phật Tổ, CA, tr.112.
6 http://www.buddhismtoday.com/viet/kinh/dt/thulangnghiem.htm
7 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 291-2
8 TN Giới Hương., Vòng Luân Hồi,  tr. 121.
9 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 292-3.
10 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 293.
11 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr.299-301.
12 Ngũ trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược và mạng trược.
13 Vòng Luân Hồi, tr. 10.
14 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 305-313.
15 Nghi Thức Tụng Niệm Hàng Ngày, Kinh Phổ Môn, HT Thích Thiện Thanh, Chùa Phật tổ, CA, tr. 66.
16 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr.321-7.
17 Thập Đại Đệ Tử, Eastwest Print, 1999, tr.11.
 

Thích Nữ Giới Hương

Còn nữa...

Viết bình luận mới

Tên bạn
Email
Nội dung
 
  • Ngắm vẻ đẹp lộng lẫy của ngôi chùa dát vàng nổi tiếng Ngắm vẻ đẹp lộng lẫy của ngôi chùa dát vàng nổi tiếng
  • Bộ hình ảnh Thập nhị Dược Xoa Thần tướng (Thích Minh Hoàng) Bộ hình ảnh Thập nhị Dược Xoa Thần tướng (Thích Minh Hoàng)
  • Chùm ảnh "Hoa Hồng xuống phố" - TP.HCM và Hà Nội Chùm ảnh "Hoa Hồng xuống phố" - TP.HCM và Hà Nội
  • Chùm ảnh: Tranh thư pháp mùa Vu Lan 2012 (Minh Hoàng) Chùm ảnh: Tranh thư pháp mùa Vu Lan 2012 (Minh Hoàng)
  • Chùm ảnh: Nghệ An tràn ngập sắc màu Phật giáo Chùm ảnh: Nghệ An tràn ngập sắc màu Phật giáo
  • Đưa quá khứ bước ra từ những pho tượng giả cổ Đưa quá khứ bước ra từ những pho tượng giả cổ
  • Lược sử Ðức Phật Thích Ca từ thành đạo đến nhập niết bàn (HT.Thiện Hoa) Lược sử Ðức Phật Thích Ca từ thành đạo đến nhập niết bàn (HT.Thiện Hoa)
  • Đa dạng, hân hoan Phật đản tại Hàn Quốc Đa dạng, hân hoan Phật đản tại Hàn Quốc
  • Người giữ hồn “Quốc hoa Tây Hồ” Người giữ hồn “Quốc hoa Tây Hồ”
  • Chùm ảnh: Hoa "Đức Phật" rực sáng đường phố Hà Nội Chùm ảnh: Hoa "Đức Phật" rực sáng đường phố Hà Nội

Đánh giá của bạn về giao diện website: tongiaovadantoc.com

Rất tiện lợi và chuyên nghiệp
Giao diện đẹp dễ dùng
Tôi có một góp ý cho TG&DT
Cũng bình thường
xem tin tức, Thế giới tin tức Kpop, Kho sim thẻ, sim số đẹp