Tuy nhiên, sâu xa hơn, hệ lụy trực tiếp của “đồng minh ý thức
hệ” không chỉ là những lơ là trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, mà
điều đáng lo ngại là Việt Nam đang lệ thuộc lớn vào đối thủ nguy hiểm
nhất của mình, về mô hình phát triển, thứ tạo nên nền tảng quyết định
tương lai lâu dài của dân tộc Việt Nam.
Những người Việt Nam quan
tâm đếnTrung Quốc, dù bị chi phối đến đâu bởi lòng tự tôn dân tộc, cũng
không thể không nhận thấy những sự tương đồng căn bản giữa Việt Nam và
Trung Quốc trong cả cấu trúc và tổ chức hệ thống chính trị, xã hội lẫn
đường và lối chính sách phát triển kinh tế, hay nói rộng ra là mô hình
phát triển đất nước trong giai đoạn vừa qua.
Vẫn hướng về Bắc Kinh
Có
thể Việt Nam không ngây thơ tin tưởng quá mức vào những người “đồng
chí”, nhưng không thể phủ nhận, Việt Nam vẫn đang hướng về Bắc Kinh như
là nơi cung cấp chủ yếu những kinh nghiệm về phát triển đất nước.
Đích
đến của hai bên không mấy khác nhau: tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá,
nhằm bảo vệ tính chính danh và duy trì thế độc tôn chính trị của đảng
cầm quyền.
Hậu quả trước mắt đã rõ ràng, chủ quyền lãnh thổ đã và
đang bị xâm phạm và đe dọa; hàng hóa Trung Quốc đang tràn ngập thị
trường Việt Nam và Hà Nội đang lo lắng bị Bắc Kinh trả đũa về kinh tế.
Và nhìn về tương lai lâu dài hơn, ít người dám lạc quan về mô hình phát
triển hiện nay sẽ đưa Việt Nam đến đích.
Hai nước đều thừa nhận là tính minh bạch thấp, tham nhũng tràn lan và sự quản lý yếu kém của chính quyền các cấp.
Hệ
thống chính trị của Trung Quốc, như các nhà phân tích đánh giá, lộ rõ
những vấn đề nan giải: đó là nạn bè phái và chia rẻ trong hàng ngũ lãnh
đạo cấp cao; chính quyền với năng lực yếu kém, trong lúc các nhóm lợi
ích càng lúc càng lớn mạnh… Dù mang những nét đặc trưng cơ bản giống
nhau, Trung Quốc, xét một cách khách quan, đang thành công hơn Việt Nam
rất nhiều trong việc theo đuổi mô hình phát triển nói trên.
Việc
xây dựng mô hình Trung Quốc, như Đặng Tiểu Bình từng thừa nhận là cách
làm “dò đá qua sông”. Việt Nam cũng tự nhận đang xây dựng một kiểu “chủ
nghĩa xã hội chưa có tiền lệ”. Tuy nhiên, đáng tiếc là, dù đi sau, Việt
Nam đã không thể làm tốt hơn được như Trung Quốc, cả về tầm nhìn, hoạch
định lẫn thực thi chính sách phát triển.
Việt Nam chúng ta đi sau xa
Những
thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu… hiện đại và phát
triển (xét về quy hoạch và năng lực quản lý) không thua kém các thành
phố hàng đầu thế giới. Trung Quốc cũng có những công ty, gồm cả tập đoàn
kinh tế nhà nước cũng như tư nhân, đã vươn lên thành những tập đoàn
cạnh tranh toàn cầu. Vị trí của họ trong chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu
đương nhiên cao hơn hẳn Việt Nam, tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn, khả
năng cạnh tranh cao hơn nhờ năng lực công nghệ vượt trội Việt Nam.
Tuy
nhiên giới nghiên cứu và phân tích cũng bầy tỏ hoài nghi sâu sắc về
tính bền vững của “mô hình phát triển Trung Quốc”. Sau gần 4 thập kỷ cải
cách, Trung Quốc đang đối mặt với những thử thách gay gắt. Sự phân hóa
thu nhập và chất lượng sống giữa các nhóm xã hội, giữa nông thôn và
thành thị đang ngày càng sâu sắc; chính quyền tùy tiện thu hồi đất nông
nghiệp phục vụ đô thị hóa. Những hạn chế của chế độ hộ khẩu và thách
thức trong việc đưa hàng trăm triệu công nhân trở thành tầng lớp trung
lưu mới; tình trạng ô nhiễm môi trường tồi tệ; xung đột dân tộc leo
thang gay gắt ở các khu tự trị.
Nhìn vào mô hình Trung Quốc, nhiều ý kiến cho rằng Trung Quốc sẽ không thể thành công như các nước công nghiệp mởi Đông Nam Á.
Cuộc đua phát triển
Dù
mang nặng tâm lý “bài Trung” đến đâu đi chăng nữa, ít người dám phủ
nhận rằng Việt Nam về đại để gần như bản sao của mô hình Trung Quốc. Và
dù là người đi sau, Việt Nam lại hầu như không tránh được những vết xe
đổ và sai lầm mà Trung Quốc gặp phải.
Nói cách khác, “phiên bản
phát triển Việt Nam” còn nhiều lỗi hơn phiên bản gốc vốn dĩ đã có rất
nhiều vấn đề. Do đó, nếu hiện trạng này tiếp tục được duy trì, khoảng
cách phát triển giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ ngày càng rộng hơn. Khi
đó, trong cuộc cạnh tranh khốc liệt với gã khổng lồ phương Bắc, những
thua thiệt của Việt Nam sẽ càng thể hiện rõ nét hơn.
Từ những quan
sát và phân tích trên, có thể nói Việt Nam cần tỉnh táo và thực dụng
hơn: thay vì nhìn Trung Quốc như “kẻ thù”, hãy nhìn họ như những đối thủ
cạnh tranh trên con đường phát triển.
Bản chất bá quyền và bành
trướng của Bắc Kinh đã lộ rõ, nhưng những ngôn từ mang màu sắc dân tộc
chủ nghĩa và kích động như “Trung cộng” hay “bè lũ xâm lược biển Đông”
không phải là vũ khí hiệu quả giúp chúng ta tự vệ thành công. Muốn vượt
lên Trung Quốc, Việt Nam cần một mô hình phát triển vượt trội hơn. Khó
khăn rất nhiều, nhưng cơ hội vẫn còn đó, vì với quy mô dân số ít hơn
nhiều và mức độ đồng nhất xã hội cao hơn, việc chèo lái một cỗ máy phát
triển như Việt Nam sẽ đi nhanh hơn là cỗ xe khổng lồ, phân mảnh và phức
tạp như Trung Quốc. Hơn thế nữa, việc một Trung Quốc đang bị cả thế giới
soi xét với con mắt dè chừng đầy nghi kỵ cũng là lợi thế không nhỏ cho
Việt Nam.
Đây là thời điểm không thể tốt hơn để Việt Nam có thể
đổi mới mô hình phát triển và thoát khỏi hoàn toàn quỹ đạo ảnh hưởng của
Trung Quốc. Đổi mới và dân chủ hóa hoàn toàn không nhất thiết đe dọa vị
thế lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là khi Đảng cộng sản lãnh
xướng và làm chủ quá trình đó.
Có thể nói, với Đảng Cộng sản Việt
Nam, đây cũng là thời điểm thích hợp và là cơ hội lớn để tái khẳng định
tính chính danh và năng lực lãnh đạo của mình. Nhìn vào tương quan lực
lượng chính trị hiện nay, vị thế cầm quyền của Đảng cộng sản vẫn là vững
chắc.
Dù đánh mất đáng kể cảm tình của một bộ phận người dân, tại
thời điểm này, không một lực lượng chính trị nào đủ điều kiện và có vị
thế tốt hơn Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc lĩnh xướng ngọn cờ đổi mới
đất nước. Vì vậy, không cần chờ đến Đại hội Đảng gần nhất vào năm 2016,
ngay lúc này Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn có thể khởi xướng một cuộc thảo
luận rộng rãi trong nội bộ Đảng và các nhóm xã hội về một “mô hình phát
triển” mới cho đất nước. Một “Hội nghị Diên Hồng” lúc này, không phải
để bàn về “Sát thát” mà bàn cách xây dựng một con đường, một mô hình
phát triển vượt trội so với người láng giềng phương Bắc.
Cả trong
ngắn hạn lẫn dài hạn, điều Việt Nam cần không phải là một cuộc chiến
tranh, đích đến của chúng ta nên là một quốc gia thịnh vượng về kinh tế
và bền vững về xã hội và môi trường.
Nên nhớ, Trung Quốc không thể
bắt nạt, cũng không dám gây chiến với Hàn Quốc hay Nhật Bản bởi những
nước này tiến bộ hơn hẳn họ về mức độ phát triển. Và với Đảng Cộng sản
Việt Nam, vị thế và tính chính danh của họ sẽ được duy trì, không phải
bằng trấn áp các tiếng nói độc lập và đối lập mà là đưa đất nước thành
công trong công cuộc đổi mới.
Vì vậy vụ giàn khoan HD 981 không
đơn thuần là mối họa, nó đưa đến cơ hội lớn lao để khởi xướng một “Hội
nghị Diên Hồng” về con đường và mô hình phát triển mới cho Việt Nam, mở
ra tương lai phát triển lâu dài cho đất nước.