Trời sớm vào xuân, những đêm buồn thao thức, không ngủ được, hơi sương lạnh còn sót lại của mùa đông năm cũ đủ để cơ địa những người nhạy cảm với thời tiết một thoáng vấn vương . Dường như cái giá lạnh của mùa đông phương đông luôn gắn kết với sắc trời mùa xuân trước mắt, là một bước đệm cho cảnh sắc huy hoàng trong nắng ấm. Nó có một chút se lạnh, một chút khô hanh nhẹ nhàng. Những lúc này người Sài gòn chúng tôi thầm bảo nhau là “Sài gòn ơi ! Gió tết đã về” . Trong đêm khuya tỉnh mịch ấy ,tôi chợt nhớ da diết câu kệ của thiền sư người Phúc Kiến Trung Hoa: Hoàng Bá Hy Vận (?-850):
Học Đạo Do Như Thủ Cấm Thành
Khẩn Bả Thành Đầu Chiến Nhất Thường
Bất Thụ Nhất Phiên Hàn Triệu Cốt
Chấm Đắc Mai Hoa Phác Tỉ Hương.
(Trần Tuấn Mẫn dịch)
Vượt khỏi trần lao việc chẵng thường
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường
Chẳng phải một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngữi mùi hương.
Nếu như mùa đông luôn làm chúng ta chạnh lòng khoắc khoải là chỉ bởi vì mùa xuân nhờ có nó mà khởi sắc tỏa hương. Mùa xuân vững vàng ngự trị trên những thử thách nghiệt ngã , có cả mất mác đau thương . Cõi trần thế là vậy. “Ví không có cảnh đông tàn / Làm sao có cảnh huy hoàng ngày xuân”. Ai đó đã thốt lên đầy cảm hứng nhưng rất nhân quả.
Với nền tảng văn chương Việt nam nói chung và văn học Phật giáo Việt Nam nói riêng, bốn câu kệ của Mãn Giác Thiền Sư (1052 – 1096) trong bài “Cáo Tật Thị Chúng” cũng là quá đủ để nói về mùa xuân thế gian:
Xuân Khứ Bách Hoa Lạc
Xuân Đáo Bách Hoa Khai
Sự Trục Nhãn Tiền Quá
Đầu Tòng Đáo Thượng Lai.
(Cố HT Thích Thanh Kiểm dịch thơ)
Xuân đi mang cả một mùa hoa
Xuân đến hoa lòng nở với ta
Muôn sự thăng trầm qua nước mắt
Một dòng tuổi mộmng lại trôi qua.
Đâu phải xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.
Nhưng điều kỳ lạ muốn nói là ở chổ hai bài kệ của hai vị thiền sư ở hai bờ đất nước khác nhau lại có điểm nhấn ở hai câu cuối, và nếu trong một thoáng ngẫu hứng , chúng ta thử ghép lại vào nhau thì tuyệt vời làm sao. Thí dụ:
Chẵng phải một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngữi mùi hương(-)
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai(-)
Một ý của vế trước thì nhắc nhở người con Phật luôn phải tự thân trau dồi phẫm hạnh, để tiếng thơm bay được ngược chiều gió dặm xa. Vê` sau thì khuyên bảo chúng ta nhân duyên luôn ở trước mặt, chỉ người có đủ đầy đức hạnh mới nhận biết và nắm bắt, dù là nghịch duyên cũng trở nên thuận duyên.
Ai cũng biết, bài kệ Cáo Tật Thị Chúng không phải là bài kệ nói về mùa xuân và bài kệ ra đời lại không nhằm đúng giữa mùa xuân , mà là một bài kệ Trên Giường Bệnh Dạy Chúng trước khi thị tịch ! Đây chính là ý nghĩa trên mọi ý nghĩa rất thâm sâu của tư tưởng Phật giáo. Không rõ bài kệ của thiền sư Hoàng Bá Hy Vận ra đời nhằm vào hoàn cảnh nào nhưng rõ ràng hai tư tưởng đã bắt gặp nhau ở tinh thần vượt thoát, nổ lực tự tánh .
Đó là nguyên do để tôi chợt nhớ đến thiền sư Hoàng Bá Hi Vận và Mãn Giác Thiền sư mỗi độ xuân sang. Nhất là trước những biến động, trắc trở giữa đời thường, nỗi nhớ ấylại càng thêm mãnh liệt.
Thơ-Kệ của thiền sư Phật giáo sao lại dễ dàng đi vào tâm khảm con ngườivà đáp nhẹ vào văn học văn chương nhân loại như thế ấy? Phải chăng triết lý Phật đà không phải là một mớ mặc khải mang nặng hình ảnh thần quyền, luôn làm nhụt chí nhân loại , văn chương nếu có ca ngợi thì cũng chỉ dừng lại ở ngưỡng tôn giáo. Thơ-Kệ của các thiền sư Phật giáo bước qua ngưỡng cửa thiền môn, đi vào tận những chốn sâu thẵm trần đời, làm hành trang gợi nhớ một tinh thần tự chủ, một Phật tánh độc lập vốn hằng có ở mỗi chúng sanh. Mượn hình ảnh sinh diệt – đến rồi đi của thiên nhiên , như hoa mai – mùa xuân để nói về những mùa xuân- hoa mai bất diệt ! Mà sinh-diệt, đến rồi đi ở đây hoàn toàn không có bàn tay tạo hóa nào can thiệp. Sao mà thấm thía vô cùng tận ! Đó há chẳng phải là sức mạnh đầy tính nhân văn lẫn siêu thực mà rất thực của cuộc sống. Như vậy, thơ kệ Phật giáo còn là nguồn cảm hứng vô biên cho những khám phá mới của thời đại ,như chính cốt cách , căn bản giáo lý Phật đà hơn hai mươi lăm thế kỷ trước.Và đó cũng chính là sự mặc định Phật giáo không phải là một tôn giáo.
Mùa xuân phương đông nói chung và của Việt Nam chúng ta nói riêng, luôn gắn liền với hình ảnh Phật giáo bao đời nay mà dường như nói đến mùa xuân mà không nói đến Phật gíáo (Lễ Chùa Đầu Xuân) là không còn mùa xuân vậy. Đó là điều chắc chắn. Đạo lý Tứ Ân Phật giáo đã un đúc nên tinh thần thờ cúng Tổ Tiên – Tưởng Nhớ Ông Bà trong những ngày xuân thật vô cùng ý nghĩa .Ngay như Ông Táo Công mà chúng ta còn cúng tiển đưa nữa là ai. Họ không phải là ma quỷ, là kẻ khuất bóng âm cung, mà là những người mở mang bở cõi, những người sanh đẻ ta ra mới có ngày nay. Tưởng nhớ họ chính là gìn giử tính cách giáo dục ngàn đời trong tinh thần dân tộc, một dân tộc phương đông.
Hai vế thơ cuối của hai vị thiền sư vừa nêu trên , rất ứng hiện với những người con đất Việt đang sống xa xứ. Nhất là những nước đông Âu. Người ta kể rằng ở những nơi này , tuy giao thừa mồng một tết không được như quê nhà nhưng điều chắc chắn và gần như phải có là ai ai cũng đều mong muốn đến ngôi chùa gần nhất lễ bái và xin lộc đầu năm. Ngôi chùa dù ở đâu vẫn là nơi che chở hồn dân tộc – Nếp sống muôn đời của Tổ Tông(Thơ Ôn Mãn Giác). Hình ảnh này rất cuốn hút người bản địa và họ cũng dễ dàng hòa nhập với người Việt chúng ta đón mừng xuân mới. Điều này có nghĩa rằng họ luôn đi tìm những cái gì họ thiếu hoặc không có, nhất là tinh thần tương trợ, sống quần cư và đặc biệt truyền thống thờ cúng Tổ Tiên của người Việt chúng ta. Như vậy tinh thần dân tộc người Việt xa xứ vẫn luôn bắt nguồn từ ngôi chùa, vì ngôi chùa đã gìn giữ tất cả niềm tự hào đó để có tất cả hôm nay dù là ở xứ người lạnh giá.
Bà con người Việt chúng ta ly tán, xa xứ có rất nhiều nguyên do , nhưng tinh thần dân tộc, truyền thống Uống Nước Nhớ nguồn thì vẫn chỉ có một. Đó là hình ảnh ngày tết. Vậy nên khi đọc lên hai vế thơ trong ý nghĩa này chúng ta mới hiều hết những vui buồn của nhiều mãnh đời khác nhau. Tôi rất ấn tượngkhi nhìn những tấm hình chụpmái chùa Việt chìm sâu tronglớp tuyết dày, không gian chung quanh xám xịt, chư Tăng và Phật tử đều co ro trong những bộ áo ấm dầy nhiều lớp. Vậy mà nhìn lên chánh điện, một khung cảnh mới ấm áp làm sao. Đức nghiêm từ ngồi đó mỉm cười nhìn hàng con Phật co ro trong niềm tin chánh pháp, trong tinh thần dân tộc ngàn năm.
Nếu chẵng một phen sương thấm lạnh (?)
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết (?)
Đọc đi đọc lại rất nhiều lần mà nếu cũng chỉ hai câu đó thôi, sao lòng vẫn chạnh thương, cảm hoàinhưng rất mạnh mẻ dứt khoát, khẳng định rằng mùa xuân vẫn còn mãi bên ta dù đã phải chịu một mùa đông giá rét.
Giác Đạo Dương Kinh Thành
Ban Phật Giáo Việt Nam
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam