Kiều
ở lầu Ngưng Bích qua bút pháp Nguyễn
Du và Thanh Tâm Tài Nhân
*
* *
Truyện
Kiều là kiệt tác của văn
học Việt Nam và văn học thế giới. Bao nhiêu tinh hoa của tư tưởng dân tộc đều
qui tụ vào kiệt tác này. Thế nhưng do truyện Kiều được sáng tác dựa theo Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân nên phần nào là phần sáng tạo của Nguyễn Du, phần nào là phần vay mượn cho
đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Trong giới hạn bài này, chúng tôi sẽ so
sánh đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” giữa Truyện
Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều
Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân,
góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên.
Trước hết cần xác định ngay, mục đích của
văn học so sánh là tìm sự giống và khác giữa các tác giả, các tác phẩm văn
học, các trào lưu văn học, các dòng văn học và các giai đoạn văn học, chứ không
phải truy tìm sự hơn kém. Các công
trình nghiên cứu theo phương pháp so sánh từ trước đến nay vì không xác định mục
đích so sánh nên dẫn đến tình trạng là so sánh để thấy được sự hơn kém mà không phải là tìm sự giống và khác. Kiểu so sánh này thường là hạ thấp tác phẩm Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân và ca ngợi Truyện Kiều của Nguyễn
Du. Chúng ta có thể thấy điều này ở Vũ Hạnh trong Đọc Lại Truyện Kiều,
Lê Đình Kỵ trong Truyện Kiều và Chủ Nghĩa Hiện Thực của Nguyễn Du, Phan
Ngọc trong Tìm Hiểu Phong Cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, các công
trình nghiên cứu của Đặng Thanh Lê, Trọng Lai, Nguyễn Trung Hiếu . . . Còn Nguyễn
Hữu Sơn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du trong Sự So Sánh với Truyện Kim Vân
Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân thì cho rằng, nhiều cái chúng ta cho là của
Nguyễn Du thì đều đã có đầy đủ trong Truyện
Kim Vân Kiều.
Theo Nguyễn Văn Dân, so sánh như vậy là
chủ quan, kì thị và bất ổn. Do đó, hướng so sánh của bài này sẽ theo đúng mục đích
của văn học so sánh, tìm ra phần nào là phần Nguyễn Du vay mượn của Thanh Tâm
Tài Nhân, phần nào là sáng tạo của ông.
Như chúng ta đã biết, mối quan hệ tương
giao giữa Truyện Kiều và Kim Vân Kiều Truyện là mối quan hệ giao lưu ảnh hưởng. Theo giáo sư
Thạch Giang thì trong 214 trang của Kim
Vân Kiều Truyện thì Nguyễn Du đã loại bỏ 142 trang. Ông chỉ sử dụng có 72
trang để viết nên nên 1.313 câu trong tổng
số 3.256 câu Truyện Kiều. 1.914 câu
còn lại là sáng tạo của Nguyễn Du.
Vậy Nguyễn Du vay mượn gì ở Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân và đã có những sáng tạo gì?
Thứ nhất, Nguyễn Du lấy toàn bộ cốt truyện,
hệ thống nhân vật, tên nhân vật của Kim
Vân Kiều Truyện. Điều đó cho thấy cốt truyện của Kim Vân Kiều phải thú vị như thế nào đó Nguyễn Du mới lấy cốt truyện
này để sáng tạo tác phẩm cho mình. Hơn nữa, mỗi nhân vật trong Kim Vân Kiều Truyện đều có cá tính riêng
nên Nguyễn Du mới giữ nguyên hệ thống nhân vật này trong tác phẩm của mình.
Thứ hai, về tư tưởng, Nguyễn Du đã tiếp
thu thuyết tài mệnh tương đố của Kim
Vân Kiều Truyện. Tuy nhiên, ông đã
phát triển mở rộng thêm và có những đề xuất mới cho thuyết này. Ta hãy đọc và
suy ngẫm mấy vần thơ sau đây trong Truyện
Kiều sẽ thấy rõ điều ấy: Cũng liều nhắm mắt đưa chân / mà xem con tạo
xoay vần đến đâu! / Kiếp xưa đã vụng đường tu / kiếp này chẳng kẻo đền
bù mới xuôi! Rõ ràng, Nguyễn Du đã
đưa thêm thuyết Nghiệp của Phật giáo vào để bổ sung cho thuyết Tài mệnh
tương đố. Bởi nếu chỉ y cứ vào thuyết Tài mệnh tương đố, nỗi đoạn trường
thống khổ của con người sẽ không thể giải quyết. Tất cả nỗi khổ niềm đau của con
người đều do chính Tâm họ gây ra thì bây giờ cũng chính Tâm này tiêu diệt nó đi,
không thể nhờ một thế lực bên ngoài nào khác tiêu diệt giúp được.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Hơn nữa, tư tưởng định mệnh không phải là
tư tưởng chính, xuyên suốt của Kim Vân Kiều
Truyện. Kiều trong Kim Vân Kiều truyện là chủ động. Kiều trong Truyện Kiều là thụ động. Nguyễn Du đã để
cho mọi chuyện đến với Kiều một cách ngẫu nhiên.
Thứ ba, về tinh thần nhân đạo, Kim Vân Kiều Truyện ra đời trong bối cảnh
xã hội đầy bất công, tăm tối đối với con người. Nguyễn Du đã kế thừa tinh thần
này.
Ba điều trên là nguồn tư liệu để cho Nguyễn
Du sáng tạo nên tác phẩm của mình. Chúng ta thấy, Nguyễn Du có kế thừa và có
sáng tạo. Nhưng sáng tạo của Nguyễn Du mới là điểm chính yếu làm nên giá trị Truyện Kiều.
Về thể loại truyện, Truyện Kiều của Nguyễn Du là đối lập với Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyễn Du dùng thể thơ
truyền thống của dân tộc là Lục bát để
viết Truyện Kiều. Thanh Tâm tài Nhân
dùng văn xuôi để viết Kim Vân Kiều Truyện.
Kiều của Nguyễn Du khác Kiều của thanh
tâm tài Nhân. Nguyễn Du xây dựng nhân vật Kiều theo tinh thần sáng tạo của ông.
Kiều mang định mệnh, mang thân phận của người dân Việt Nam, của phụ nữ Việt Nam
trong một thời đại xã hội có nhiều biến động, đã đưa người phụ nữ tài sắc như
Kiều phải: “Thanh y hai lượt thanh lâu
hai lần”; đồng thời xã hội ấy buộc con người phải chừa bỏ cả sự trong trắng
của mình: “Chút lòng trinh bạch từ sau
xin chừa”. Và như vậy, phần nào đó, Kiều mang tâm sự của chính Nguyễn Du.
Vậy dù có vay mượn, kế thừa của Thanh Tâm
Tài Nhân nhưng trong qúa trình xây dựng tác phẩm, Nguyễn Du có những sáng tạo
nghệ thuật độc lập.
Ngoài ra, Nguyễn Du còn vay mượn rất nhiều
yếu tố trong văn học cổ Việt Nam, văn học dân gian (ca dao, dân ca, tục ngữ, lời
ăn tiếng nói hàng ngày . . .), tư tưởng dân tộc Việt Nam (Phật, Nho, Lão), văn
chương Trung Hoa và đặc biệt là vốn sống của chính ông khi viết truyện Kiều. Và
đây mới là phần cốt yếu làm nên thiên tài Nguyễn Du và làm nên kiệt tác Truyện Kiều.
Trong đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Thanh
Tâm Tài Nhân trước nhất miêu tả về thiên nhiên quanh lầu: Ngôi lầu này từ
phía đông trông ra biển xanh, phía bắc nhìn lên Kinh kỳ, phía nam ngó lại Kim Lăng,
phía tây trông ra dãy núi Kỳ Sơn.
Nguyễn Du đã giữ nguyên nội dung miêu tả
thiên nhiên này trong Truyện Kiều:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm
trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn
nọ, bùi hồng dặm kia.
Điểm khác ở đây là, Nguyễn Du đã vận dụng
ngữ pháp tiếng Việt để tạo nên những vần thơ tả cảnh đặc sắc. Hình ảnh trong những
câu thơ trên rất đẹp. Có tương phản: xa-gần, cát vàng- bụi hồng, cồn nọ- dặm
kia và có kết hợp: ở chung. Có động: cát- bụi và có tĩnh: non-
trăng. Cái hay của Đoạn thơ còn thể hiện ở cách ngắt nhịp. Thay vì ngắt ở
chữ thứ tư ở những câu tám thông thường trong Lục bát (ví dụ: cát vàng cồn nọ/ bụi hồng dặm kia) thì nhịp được
ngắt ở chữ thứ ba và thứ sáu: Vẻ non xa/ tấm trăng gần / ở chung. Hơi thơ,
vì vậy, khác thường, không đều đều một điệu.
Tâm trạng của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích
trong Kim Vân Kiều Truyện là buồn bã,
nhớ người yêu. Truyện Kiều của nguyễn
Du cũng giữ nguyên nội dung này. Nhưng trong truyện Kiều, ngoài nhớ người yêu,
Kiều còn nhớ đến cha mẹ. Điểm khác nữa là Nguyễn Du đã bỏ mười bài Chẳng
cùng nhau và bài thơ của Kiều. Cái buồn của Kiều chỉ được Thanh Tâm
Tài Nhân miêu tả đại lược bằng mấy dòng: Thúy Kiều đối cảnh buồn bã, nhớ lại
cái ngày cùng chàng Kim trao lời thề thốt, thân thiết biết chừng nào, mà nay vắng
bặt tăm hơi, thê lương biết là dường nào. Cái buồn của Kiều qua những câu
thơ Nguyễn Du thì thật là sắt se, thấm thía thể hiện qua sự lập lại bốn lần của
từ buồn trông. Tâm người ngắm cảnh tràn vào cảnh, khoác lên cảnh cái sắc
thái xa xa, man mác, dàu dàu, bàng bạc trong những
câu thơ tài tình:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu.
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi.
Đoạn Kiều bị Sở Khanh lừa, Nguyễn Du giữ
nguyên ý của Thanh Tâm Tài nhân nhưng ông lược bỏ bớt một số chi tiết không
quan trọng. Tối đó, trước khi Sở Khanh đến cùng Kiều thì Tú Bà lên lầu chuốt rượu
mời Kiều đến khuya và chi tiết Kiều cùng Sở Khanh lên giường chung giấc mộng Vu
Sơn Nguyễn Du đã lược bỏ đi. Nội dung bức thư Kiều gởi cho Sở Khanh và những lời
thề thốt Nguyễn Du cũng lược bỏ.
Sau khi Kiều cùng Sở Khanh bỏ trốn, trong
Kim Vân Kiền Truyện, lúc Tú Bà đuổi kịp
thì lại quát mắng om sòm, chửi Kiều một trận rồi mới áp giải về nhà đánh đập.
Còn trong Truyện Kiều thì khi Tú Bà bắt
được Kiều liền áp điệu một hơi lại nhà:
Một đoàn đổ đến trước sau,
Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời
Tú Bà tốc thẳng đến nơi,
Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà.
So đoạn này của Kim Vân Kiều Truyện với Truyện
Kiều thì Kim Vân Kiều Truyện do
thể loại văn xuôi của nó nên dài dòng, tỉ mỉ, nhiều khi sự tỉ mỉ đó không góp
phần gì vào việc làm rõ tính cách nhân vật. Còn Nguyễn Du, ông có những câu thơ
thật hàm súc nhưng vẫn chuyên chở được tất cả những gì ông cần nói. Những chi
tiết ông lược bỏ không gây phương hại gì đến nội dung cần diễn đạt và tính cách
nhân vật. Theo giáo sư Thạch Giang, “điều
này có một ý nghĩa rất hay là một mặt làm cho ta không phải khó chịu vì cái
lối sính thơ của nhân vật, mà trái lại dẫn ta vào một địa hạt mông lung về cái
‘tài’ và cái ‘tình’ của nhân vật, đặt biệt là Thúy Kiều. Do đó, ấn tượng về cái
mà Mộng Liên Đường chủ nhân gọi là ‘cái thông lụy’ xưa nay của kẻ giai nhân tài
tử nên xót xa, đánh thức ở ta những biểu tượng về lí tưởng, làm cho ta khao
khát mọi cái gì đẹp hơn, làm cho ta bất bình đến phát khóc với cái gì đã phũ
phàng lên cái ‘tài’; cái ‘tình’ của con người.”
Hơn nữa, cũng theo giáo sư Thạch Giang, bỏ
tất cả những bài thơ, những lời thề thốt là, Nguyễn Du muốn vượt lên cách kết cấu
thường thấy của các truyện Nôm ta xưa mà xây dựng cho mình một phong cách độc đáo
hơn, hoàn thiện hơn về kết cấu, bố cục.
Để sáng tỏ thêm, ta xét chi tiết Kiều thảo
thư gởi Sở Khanh và Sở Khanh phúc đáp. Thanh Tâm Tài Nhân tả là Kiều viết thư
xong định ném qua cửa sổ nhưng không tiện. Đang ngần ngại ra ngoài dạo chơi thì
gặp chú bé nhà Sở Khanh đi gánh nước. Kiều bèn nhờ nó gởi giúp thư. Hôm sau thì
có thư phúc đáp. Trong thư chỉ đề hai chữ Tích Việt. Kiều ngẫm nghĩ hồi lâu thì
biết là giờ Tuất, ngày hai mươi mốt sẽ gặp. Đại ý là như vậy. Nhưng Thanh Tâm
Tài Nhân Viết khoảng một trang sách. Nguyễn Du chỉ có 11 câu thơ là đủ, không
thừa, không thiếu:
Mảnh tiên kể hết xa gần
Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân
lạc loài.
Tan sương vừa rạng ngày mai,
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gởi sang.
Trời tây lãng đãng bóng vàng
Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi.
Mở xem một bức tiên mai,
Rành rành TÍCH VIỆT có hai chữ đề.
Lấy trong ý tứ mà suy:
“Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?”
Tất nhiên, đây không phải là chê Thanh
Tâm Tài Nhân, khen Nguyễn Du mà so sánh như vậy để thấy sự khác nhau giữa hai
thể loại thơ và văn xuôi. Đồng thời cũng thấy được cái tài của Nguyễn Du là,
ông có thể thâu tóm sự việc trong một số câu thơ hàm súc và đồng thời nêu bật được
tính cách nhân vật như trên đã thấy.
Trong Kim Vân Kiều truyện, lúc Sở Khanh bỏ
trốn còn một mình Thúy Kiều, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ thuần thuật lại sự việc,
không nói lên nỗi niềm chia sẻ của mình đối với người con gái đêm khuya một
mình trong rừng, sau lưng có một đoàn người đuổi theo. Còn Nguyễn Du, ông đau
xót cho Kiều:
Hóa nhi thật có nỡ lòng,
Làm
chi giày tía vò hồng lắm nau!
Đặc biệt trong đoạn này, Nguyễn Du có hai
câu thơ rất hay chứng minh cho sự phát triển tư tưởng tài mệnh tương đố của
ông:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con tạo xoay vần đến đâu.
Hai câu này thực ra là một lời cảnh cáo.
Không bao giờ nên làm một cái gì mà mình chưa suy nghĩ kỹ càng. Phải đem hết tất
cả trí tuệ của mình mà quan sát. Chỉ khi nào thấy rằng giải pháp đó là hay nhất,
không có con đường nào bằng thì mình mới làm mà thôi. Trông vào may rủi là
không nên.
Lọt trở lại vào tay Tú Bà, Kiều bị đánh một
trận tơi bời chỉ vì tội đi trốn. Về nội dung đoạn này, Kim Vân Kiều Truyện và Truyện
Kiều là giống nhau. Có điều, cũng như đoạn trên, Nguyễn Du lược bớt một số
chi tiết không cần thiết.
Về sự chua xót, đau đớn của Kiều khi bị
Tú Bà hành hạ đánh đập thì những câu thơ của Nguyễn Du lột tả được cái vẻ tàn
khốc, chua chát rất nhiều:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút
lòng trinh bạch từ sau xin chừa
Đây là hai câu thơ cay đắng, chua xót và đau
đớn nhất trong Truyện Kiều. Chừa những
thói hư tật xấu như tham lam, nóng nảy, kiêu kăng thì goị là chừa. Nhưng lòng trinh bạch mà phải chừa thì là một
bản án rất lớn của số phận đè lên con người. Đó là bi kịch lớn của loài người.
Tất cả những độc giả lớn của Nguyễn Du khi đọc đến câu này đều phẫn uất. Phẫn uất
cho người, phẫn uất cho xã hội. Một xã hội mà trong đó cô thiếu nữ phải hứa là
sẽ chừa đi cái trong sạch và trinh trắng của mình!
Đây chính là điểm sáng tạo độc đáo của
Nguyễn Du. Và đây cũng chính là chỗ ông khác với Thanh Tâm Tài Nhân.
Từ việc thuật lại sự đánh đập dã man của
Tú Bà đối với Kiều củaThanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã nâng nó lên thành một bản
án tố cáo xã hội gay gắt.
Sau trận đòn chí tử, Kiều thân thể rã rời
và sốt cao. Tú Bà vào thăm và khuyên Kiều uống thuốc. Lành bịnh rồi muốn ở làm ăn
thì sẽ biệt đãi còn không muốn thì sẽ tìm chỗ nào đó bán đi. Lúc đó, Kiều trả lời:
bình đã vỡ rồi, đi với người chi bằng ở với người cũ. Từ nay con xin theo mẹ
làm ăn. Ở đây không có sự than trách, cũng không phải sẵn sàng chấp nhận thực
tại mà đánh liều: Đã ra nông nỗi này thì biết làm sao bây giờ!
Với Nguyễn Du thì việc tiếp tục ở lại làm
việc cho Tú Bà là có lí do. Kiều đặt câu hỏi có phải sanh ra kiếp hồng nhan ở
cõi trần này là khổ mãi hay không? “Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru?”
Rồi nàng tự trả lời không phải thế. Sở dĩ bây giờ mình đau khổ là vì:
Kiếp xưa đã vụng đường tu,
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi!
Bây giờ mình đau khổ như thế này là vì kiếp
trước mình đã không vun bồi đức hạnh, trí tuệ. Vì vậy, đừng than thở nữa, hãy sửa
đổi những lỗi lầm trong qúa khứ. Ở đây Kiều nghĩ rằng mình phải chấp nhận tiếp
khách để trả cái nợ mình đã mắc trong tiền kiếp.
Tại đây ta thấy có sự khác nhau giữa tư tưởng
Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân. Thanh Tâm Tài Nhân thì dường như cho mọi việc
xảy ra theo quyết định tức thời. Còn Nguyên Du thì thấy có nhân có quả.
Qua phân tích đoạn trích trên giữa hai
tác phẩm Kim Vân Kiều Truyện và Truyện Kiều, chúng ta thấy quan niệm so
sánh để tìm sự hơn kém là cực đoan.
Cho rằng vay mượn là tất cả là duy nhất là một cực đoan. Vay mượn là điều tất
nhiên và cần thiết nhưng không phải là tất cà và duy nhất. Trên thế giới, những
kiệt tác hay nhất thường bắt nguồn từ một cốt truyện trước nó làm chất liệu để
sáng tác nên những kiệt tác mới. Vay mượn không những diễn ra trong nội bộ của
văn học dân tộc mà cả văn học thế giới như Hamlet,
Othello của Shakespeare, Faust của
Goethe, Truyện Kiều của Nguyên Du . .
. Ở đây, rõ ràng tài hoa của người nghệ
sĩ mới là quan trọng. Có chất liệu tốt mà đưa cho một bàn tay vụng về thì cũng
trở nên vô dụng. Ngược lại, một chất liệu bình thường qua một bàn tay tài hoa
thì thành ra món đồ qúy giá vô cùng. Song cũng có những kiệt tác người ta không
cần phải vay mượn một cốt truyện nào cả như
Chiến tranh và hòa bình của Lep Tolxtoi, Moby Dick của Herman Melville, Chinh
Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn . . .
Còn quan niệm cho rằng ảnh hưởng hầu như
không có giá trị gì cũng lại là một cực đoan khác. Giao lưu ảnh hưởng luôn luôn
là một trong những nhân tố làm chất liệu cho sáng tạo nghệ thuật của người nghệ
sĩ. Bởi người nghệ sĩ không thể nào sáng tạo trên mây trên gió mà bao giờ cũng
sáng tạo trên cơ sở nhiều yếu tố. Trong số những yếu tố đó thì yếu tố giao lưu ảnh
hưởng cũng không kém phần quan trọng. Trong lịch sử văn học thế giới, chúng ta đã
từng biết sự ảnh hưởng của nhà văn này đối với nhà văn khác như: Pushkin ảnh hưởng
Byron, Dante ảnh hưởng Virgile, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử ảnh hưởng Baudelaire . .
. Đó là chưa kể có những giao lưu ảnh hưởng tập thể như sự ảnh hưởng của văn học Hy Lạp, sự ảnh hưởng
của văn học Phục Hưng Ý, Sự ảnh hưởng của văn học cổ điển Pháp thế kỷ XVII, của
Chủ nghĩa Lãng mạn Đức v. v . . .
Như vậy, theo chúng tôi thì việc giao lưu
ảnh hưởng, vay mượn là cần thiết và nên
có. Nhưng nó không phải là duy nhất và quyết định đến sự thành công và
thất bại của nhà văn và tác phẩm. Thành công hay thất bại là ở tài năng của người
nghệ sĩ. Còn bản thân chất liệu mà người nghệ sĩ vay mượn chỉ là yếu tố để họ
sáng tạo mà thôi. Tất nhiên, không có yếu tố này người ta tìm yếu tố khác. Song
yếu tố mà người nghệ sĩ chọn làm chất liệu sáng tạo phải gây được cho họ cảm
xúc gì đó họ mới chọn chứ không phải bất kì thứ gì cũng chọn. Nguyễn Du chọn Kim vân Kiều Truyện để làm chất liệu sáng tạo nghệ thuật cho mình chắc chắn Kim Vân Kiều Truyện cũng gây cho ông sự
thích thú gì đó ông mới chọn chứ không phải ngẫu nhiên. Nhưng sự sáng tạo của
Nguyễn Du mới là yếu tố chính làm nên kiệt tác Đoạn Trường Tân Thanh.
Tâm Bình