Những giáo pháp căn bản của đạo Phật, như yêu thương chúng sinh, tu nghiệp thanh tịnh, làm các việc lành… thì Thanh Hải Vô thượng sư diễn thuyết rất sinh động, nhưng không dẫn xuất xứ, mà được thể hiện như là giáo pháp của bà ta nghĩ ra.
Những giáo pháp căn bản của đạo Phật, như yêu thương chúng sinh, tu nghiệp thanh tịnh, làm các việc lành… thì Thanh Hải Vô thượng sư diễn thuyết rất sinh động, nhưng không dẫn xuất xứ, mà được thể hiện như là giáo pháp của bà ta nghĩ ra
Tuy là nằm trong loạt bài được gợi ý từ bài viết “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”, với nội dung chính là dành sự quý trọng dành cho một thiểu số Phật tử tinh hoa, nhưng đề tài bài viết này chúng tôi suy nghĩ đã lâu, vì ý kiến như trên cũng là ý kiến của một số nhà nghiên cứu Phật học, rằng với sự cao siêu, trí tuệ, đạo Phật không thể là đạo của số đông được, và nếu đạo Phật có trở thành thiểu số đi nữa, thì cũng là lẽ đương nhiên, cũng như nói “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”, “cho nên hậu đại học bao giờ cũng ít hơn trung học là điều tất yếu trong hệ thống giáo dục!”.
Tôi xin phép thảo luận một cách hiểu khác quan điểm trên ở ba trường hợp.
Trường hợp thứ nhất, theo tôi, là đáng lưu ý hơn cả, đáng lấy làm thận trọng hơn cả, vì đây là một nội dung chính mà đạo Tin Lành sử dụng để cải đạo tín đồ Phật giáo, không chỉ ở Việt Nam, mà trên khắp châu Á, miền đất của đạo Phật.
Họ có 6 lập luận chính. Những lập luận này mâu thuẫn nhau, nhưng luôn được nhắc đến nhau, tùy trường hợp mà vận dụng.
Thí dụ, tiến hành diễn biến cải đạo tín đồ Phật giáo đối với người có trình độ học vấn cao, thì họ sẽ nói rằng hãy từ bỏ đạo Phật đi, vì đạo Phật là một thứ mê tín dị đoan, không thích hợp với thời đại văn minh.
Đó là cách nói mà những người phụ trách cải đạo nói với tôi, khi họ tìm cách tiếp xúc với tôi trong công viên, khi nhận từ tôi lời tự giới thiệu (nói đùa), là đạo diễn truyền hình, học ở Liên Xô về.
Còn với Phật tử mà họ biết là có trình độ học vấn thấp, là người lao động chân tay, thì họ cải đạo bằng cách nói đạo Phật trí tuệ cao siêu lắm, sách vở “tràng giang đại hải”, rất khó hiểu, là một hệ thống triết học phức tạp chứ không là một tôn giáo, không thích hợp cho số đông, trong khi đạo của họ dễ hiểu, đơn giản, chỉ cần tin theo là được lên thiên đàng, chẳng cần tu học nhức đầu.
Cũng tại công viên Tao Đàn, một người cải đạo khác đã nói với tôi như thế, khi tôi trả lời (cũng đùa) câu hỏi về nghề nghiệp: bán hủ tiếu mì gõ!
Nhưng không thể chỉ dẫn những câu chuyện cá nhân như vậy để “thuyết minh” với bạn đọc.
Các đạo muốn cải đạo Phật giáo thường không trình bày rõ trên giấy trắng mực đen những lập luận kỳ quái và mâu thuẫn nhau như vậy.
Nhưng, để nói có sách, mách có chứng, mời bạn đọc có thể vào địa chỉ http://www.oocities.com/.../tedesco1.html, tìm đọc bài nghiên cứu của tác giả Frank. M. Tedesco có nhan đề “Questions for Buddhist and Christian cooperation in Korea”.
Trong phần 4, phần chính của tài liệu này, tác giả có dẫn lại 6 lập luận chính của Tin Lành dùng để cải đạo tín đồ Phật giáo Hàn Quốc.
“1) Buddhism is superstition
2) Buddhism is idol worship
3) Jesus is Got, but Shakyamuni’s is (was) a human being
4) Buddhism is too difficult to understand. It is a philosophy, not a religion. Believe in Jesus is easy to understand and to do
5) Buddhism is baseless. It has no substance at its roof. It is responsible for the wrong doing of its monks and nuns.
6) Buddhism is an evil religion that must be eradicated from the face of the earth”
Lấy cơ sở bản dịch máy của Google khá dễ hiểu và chính xác, có thể diễn giải lại như sau:
"1) Phật giáo là mê tín dị đoan
2) Phật giáo là tôn thờ ma quỷ
3) Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà Thích Ca Mâu Ni đã là một con người.
4) Phật giáo là quá khó hiểu. Nó là một triết học, không phải là một tôn giáo. Niềm tin vào Chúa Giesu là dễ hiểu và dễ làm.
5) Phật giáo là vô căn cứ. Nó không có chất ở gốc. Nó chịu trách nhiệm cho việc làm sai trái của các tăng ni của mình.
6) Phật giáo là một tôn giáo xấu xa, nó phải được loại trừ khỏi mặt đất”
Còn một cơ sở lý luận nữa, thường không viết rõ trong các văn bản, nhưng được triển khai rộng rãi trong thực tế. Đó là Phật giáo là cộng sản, theo kiểu mục sư Tin Lành xông vào Tổ đình Tào Khê ở Hàn Quốc hò hét “ai không theo Giesu là đảng cộng sản”, nói Phật giáo là cộng sản.
Chúng ta tập trung khảo sát vào điểm thứ 4 trong số những điểm kể trên: “Phật giáo là quá khó hiểu. Nó là một triết học, không phải là một tôn giáo. Niềm tin vào chúa Giesu là dễ hiểu và dễ làm”.
Căn cứ vào lập luận này, những người xúc tiến việc cải đạo tín đồ Phật giáo tin tưởng rằng Phật giáo không thể thích hợp cho số đông, vì số đông phần lớn là người ít học (trình độ chỉ ở mức tiểu học, trung học cơ sở), chỉ có thể thích hợp với một thiểu số có học (đại học, hậu đại học chẳng hạn).
Họ áp dụng triệt để lập luận này trong thực tế, tranh thủ cải đạo số đông những Phật tử có trình độ Phật học thấp và thực tế đã đạt được kết quả đáng kể.
Nay nếu chúng ta lập luận bỏ mặc số tín đồ không am hiểu nhiều về Phật pháp, cho rằng không cần thiết, không quan trọng, không đáng kể trong đạo Phật, là “hạt lép”, bỏ mặc cho họ cải đạo, thì vô tình, giữa những người trong chúng ta có những suy nghĩ như vậy đã tiếp sức cho các thế lực cải đạo, chuyển giao một bộ phận tín đồ cho họ.
Trường hợp thứ hai cũng là cố gắng thể hiện một đạo Phật cao siêu, trí tuệ, và cũng thật khó hiểu. Trong khi đó, những nội dung căn bản, dễ hiểu nhất của Phật giáo như từ bi, yêu thương chúng sinh bất kể là người hay động vật bảo vệ sự song thành của người khác. Đó là trường hợp chúng ta thường thấy trên Supreme Master TV.
Đài này giới thiệu đủ loại tôn giáo, nhưng đối với đạo Phật thì thường giới thiệu lời văn Kinh Pháp Hoa, phân thành nhiều kỳ, minh họa ảnh tĩnh, tất nhiên khó hiểu.
Còn những giáo pháp căn bản của đạo Phật, như yêu thương chúng sinh, tu nghiệp thanh tịnh, làm các việc lành… thì Thanh Hải Vô thượng sư diễn thuyết rất sinh động, nhưng không dẫn xuất xứ, mà được thể hiện như là giáo pháp của bà ta nghĩ ra, trước hiểm họa hiện nay đe dọa Trái đất.
Đối tượng mà Thanh Hải tranh thủ, tập trung là đối tượng số đông, người có học vấn không cao, phù hợp với đối tượng, mà nhiều ý kiến từ Phật giáo cho là không cần thiết.
Trường hợp thứ ba, chúng tôi muốn nói đến thời kỳ mà Phật giáo Việt Nam có nhiều trí thức cư sĩ am hiểu Phật học nửa đầu thế kỷ XX. Có thể kể đến các ông Trần Trọng Kim, Trần Văn Giáp, Ngô Tất Tố, Thiều Chửu, Đoàn Trung Còn…
Họ đã biên soạn nhiều công trình nghiên cứu Phật học rất giá trị, tầm cỡ, nhưng thời kỳ này cũng là thời kỳ suy vi của Phật giáo Việt Nam, một số tôn giáo nội sinh tại Việt Nam xuất hiện với những giáo lý căn bản xuất phát từ giáo lý sơ đẳng của đạo Phật, và cũng là thời kỳ chư tôn đức bắt đầu ý thức được sự suy vi của Phật giáo Việt Nam, bắt đầu công cuộc chấn hưng Phật giáo, để tìm lại số đông tín đồ nắm được giáo lý phổ thông, căn bản sơ cấp (không phải là hậu đại học).
Điểm lại 3 trường hợp trên, chúng tôi không có mong muốn gì khác hơn, là kính đề nghị quý tăng ni quý đạo hữu có quan điểm đạo Phật là đạo trí tuệ, đạo cao siêu, chỉ thích hợp cho một tầng lớp tinh hoa thiểu số, và không cần đến số đông có trình độ thấp kém, bỏ mặc cho họ cải đạo xét lại cách nghĩ như vừa nói.
Theo Minh Thạnh\phattuvietnam.net