ĐẠI LỄ CẦU SIÊUTRAI ĐÀN BẠT THUỶ, GIẢI OAN CHẨN TẾ
NGUYỆN CẦU QUỐC THÁI DÂN AN
TRÊN DÒNG SÔNG THẠCH HÃN – QUẢNG TRỊ
(từ ngày 18 đến 21 tháng 8 năm 2011)
1- GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC:• Trai đàn ( 齋 壇 ) nghĩa là Đàn chay. Trai, nghĩa là tổ chức cúng lễ hoàn toàn dùng đồ thực phẩm hoa quả, đèn nến chay tịnh. Đàn, là cách thiết lập hình thức lớn và tuân thủ một nguyên tắc nhất định. Ở đây Đàn tràng tuân thủ theo nguyên tắc bố trí Mạn Đà La của Mật tông.
• Chẩn tế ( 振 濟 ) nghĩa là cấp phát và cứu giúp. Đây là một hình thức Bố thí cho cõi âm. Vì vậy, để người trong Âm giới hưởng được lợi lạc, không còn bị đói khổ hành hạ mà nhẹ nhàng siêu thoát, chúng ta phải vận dụng Nghi thức Đàn Tràng để đạt đến năng lực vô biên từ Thân- Khẩu- Ý thanh tịnh, mới mong cứu giúp các Vong hồn.
• Giải oan ( 解 冤 ), là cởi bỏ sự níu kéo oán thù của nhau. Khi sống, ta vô tình hay hữu ý tạo ra hiểu lầm, hay vì u mê, khốn khổ, sân hận đưa đến oán ghét muốn trả thù làm hại nhau.v.v. Vì oán hận nhau mà ta cột ta với người khác bằng sợi dây oan nghiệt. Bởi vậy, chỉ có Năng lượng vô biên của pháp Phật được tạo ra bởi sức chú nguyện của chư Tăng trong Đàn Tràng mới mong cắt đứt sợi giây oan khiên nhiều đời nhiều kiếp.
• Bạt độ ( 拔 度 ). Bạt là nhổ lên, độ là qua. Muốn thuyền qua được bờ bên kia, ta phải nhổ cái neo cắm, đã cột chặt chiếc thuyền vào bờ bên này. Ta muốn Hương linh của chúng ta thoát mình ra khỏi những ràng buộc trong oan khiên nghiệp chướng nhiều đời để lên được bến bờ giải thoát, ta phải giúp họ nhổ sạch gốc rễ lầm lỗi. Do tham lam, do sân hận, do si mê mà ta như cái cây, càng sống càng đâm rễ bám sâu vào mảnh đất của tội lỗi nghiệp chướng. Không nhờ Đàn tràng với sức mạnh của công năng tập thể, ta không nhổ sạch được gốc rễ tội chướng.
• Bạt Thuỷ, viết đủ, phải gọi là: “Bạt Độ Tử Nghiệp Trầm Thuỷ”. Bạt là nhổ lên, hay vớt lên. Độ là đưa qua. Trầm là chìm sâu, ngụp lặn. Thuỷ là nước. Nghĩa là: Đàn pháp chuyên dùng cứu vớt siêu thoát cho người mắc nghiệp chết nước.
Chết ở trong nước, thần thức hương linh bị chìm ngộp và chịu sự lạnh lẽo dưới nước, đưa thần thức hương linh ra khỏi sự chìm nghỉm giam hãm dưới đó ta phải vận dụng đến Đàn pháp Bạt Thuỷ.
Cõi sống chúng ta ở trên cạn. Sự truyền tải âm thanh và ánh sáng cũng như sự dịch chuyển của mọi vật trên khô không giống như dưới nước. Núi - sông hay sơn - thuỷ đó là hai lĩnh vực khác nhau, nên người xưa khi triệu hồn phải vận dụng đến cành phan cho hai cõi sơn, thuỷ riêng biệt là vậy.
Sự cầu nguyện của ta, phát sinh do sự nhất tâm hướng về người mắc nghiệp chết nước, tâm có tác năng tạo sự cảm ứng, hương linh dưới nước có thể cảm nhận được. Tuy vậy, tiếng kinh lời thỉnh nguyện không chạm sâu đến được người đang chìm ngộp trong thế giới đó. Khả năng thức tỉnh không đủ lớn để vượt thoát sự giam hãm dày xéo bức xé bởi nghiệp lực níu kéo chìm nghỉm dưới đáy sông. Họ không lên bờ ra khỏi nước được. Muốn cứu người đang chìm đắm, bởi nghiệp thức giam hãm dưới nước để cầu nguyện siêu thoát, việc trước tiên ta phải “vớt” họ lên khỏi nước.
Cùng là chết trẻ, đều là oan nghiệp níu kéo, nhưng người chết nước khó giải, khó cầu hơn, nên khả năng thoát nghiệp lại càng mong manh. Chỉ cành phan và vài ba lời chú nguyện không đủ năng lực để cứu vớt nghiệp thức giam hảm trong cõi sống kia của người chết nước.
Nguyễn Du có câu thỉnh trong Văn tế: “Lại thỉnh kẻ chìm sông lạc suối”. Trong chiến tranh, dựa vào núi non hiểm địa là một lợi thế, nhưng chính các con sông là một bất lợi. Con sông Thạch Hãn, vì thế, đã để lại hình ảnh nhắc nhớ thương đau:
“Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Dưới đáy dòng sông bạn tôi nằm”.
Chiến tranh đi qua, hận thù, đạn bom và cái chết, đến sông nước cũng nuốt lệ kêu hờn: “Sông Thạch Hãn chứa đầy bao uất hận”. Dòng sông đẹp và hiền hoà, nơi con đò đưa khách qua lại trên đôi bờ Nam - Bắc mỗi ngày thật gần gũi và thân thương, có đâu ngờ con sông đó từng nhuộm máu các Anh. Bờ sông bến nước người dân nơi đây lấy nước sinh hoạt, có ai nghĩ đã từng điêu linh đến như thế.
Nay hướng về tất cả chư Anh Hùng Liệt Nữ Vị Quốc Vong Thân, Chư Vị đã ngã xuống trên mảnh đất Quảng Trị, chúng tôi nguyện vì Chư Vị thiết lập Đàn tràng này.
Nhờ sức mạnh của Đàn pháp Bạt Thuỷ, Đàn Pháp Bạt Độ Giải Oan, khai ngục mở lối cho Hương Linh hướng về Phật Pháp quy y chuyển hoá, cởi bỏ oan trái buộc ràng ngày trước. Đàn Pháp Bạt Thuỷ chuyên vì cứu vớt các vong linh chết chìm sông sâu. Một Đàn Pháp cùng lúc thiết lập cả hai bên bờ sông như thế lâu nay chúng ta chưa vận dụng trên dòng sông Thạch Hãn. Vì nghĩ tưởng đến một phương cách nào đó có công năng lớn nên Thụy Ứng mới vận dụng đến Đàn Pháp này. Mong sao bao oan hồn uổng tử vất vưởng sinh sống quanh sông, bao Anh linh mồ chôn đáy sông sâu kia bấy lâu, nơi Am Thụy Ứng đang từng bước khởi nguyện hoằng duyên pháp Phật chuyển hoá nhân sinh, được nương nhờ oai lực của Tam Bảo đều được siêu thoát.
2- Ý NGHĨA ĐÀN TRÀNG:Là người Việt Nam, từ hàng nghìn năm trước, bởi ảnh hưởng Đạo Bụt nên ông bà tổ tiên chúng ta có niềm tin chắc chắn rằng: “Chết- không hoàn toàn mất đi, thần thức vẫn mãi còn đó”, vì vậy con cháu phải lo phụng thờ. Hai nghìn năm sau, định luật Bảo toàn năng lượng của nền khoa học Vật lý đã chứng minh được rằng: “Sự vật không bao giờ mất đi, chỉ biến đổi từ trạng thái này qua trạng thái khác”.
Vậy thì, những tội lỗi mà khi sinh tiền ta tạo ra cũng không mất đi. Ngược lại, nó theo ta như bóng với hình. Tuy người thân ta chết rồi nhưng vẫn bị dày vò bởi kết quả của tội lỗi đã tạo. Họ quá khổ đau nên tìm về người thân còn sống để níu kéo. Những Hương linh không còn ai để nương nhờ giúp đỡ thì đi lang thang vật vờ làm thành thế giới Cô hồn Ngạ quỷ. Tất cả, họ luôn bao quanh chúng ta.
Càng đau khổ vì oan khiên nghiệp báo vay trả- trả vay níu kéo dày xéo, HL càng mất phương hướng để tìm đường tái sinh hay siêu thoát. Do vậy, chư Tổ lập ra Đàn Tràng Chẩn Tế, y vào lời Bụt dạy là nhằm giúp cho thế giới Âm Linh, Cô Hồn một cơ hội lớn nhất để siêu thoát. Chỉ có trong Đàn Tràng ta mới hợp nhất thành một sức mạnh lớn lao được.
Âm siêu thì Dương cũng nhẹ nhàng thư thái mà đi lên, con người thanh thản, hưởng phúc ấm của tổ tiên mà an lành, làm ăn thuận đường phát đạt... Lợi ích của Đàn Tràng thật vô biên không thể nói hết được.
3- LÝ DO AM THỤY ỨNG TỔ CHỨC :Sống giữa quê hương Việt Nam, trải qua hai cuộc chiến khốc liệt, thế hệ cha ông và thầy tổ chúng ta từng chịu không biết bao nhiêu thảm cảnh hoang tàn điêu linh. Hoà bình lập lại, nhưng ai dám bảo là đủ lâu dài để quên đi vết thương chiến tranh trên da thịt quê mẹ?
Dù ở tận phương trời xa, khi nghe cái tên hàng rào Macnamara là người ta liên tưởng ngay đến Quảng Trị với đôi bờ Bến Hải làm ranh giới chia cắt. Quý vị nếu chỉ một lần trên Quốc lộ Bắc Nam, đi ngang Quảng Trị sẽ nhìn thấy hình ảnh chiếc cầu Hiền Lương còn đó như nhắc nhớ chúng ta đừng vội quên đất nước một thời nhức nhối thương đau. Rồi chiến khu Ba Lòng, nhà tù Lao Bảo và Địa đạo Vĩnh Mốc.v.v. những địa danh gắn liền với lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc, nhưng cũng thấm thía nỗi mất mát nghiệt ngã của bao nhiêu thế hệ cha ông đã ngã xuống.
Là người Quảng Trị chúng tôi càng thấm sâu hơn nỗi kinh hoàng của chiến tranh, nghiệt ngã và dai dẳng. Biến cố năm 1972, đã khiến hàng ngàn người dân Quảng Trị phải bỏ mình vì tháo thân chạy loạn. Đau thương những năm tháng này khó phai nhoà trong ký ức người dân vùng đất Quảng. Trên mảnh đất này, hàng triệu chiến sĩ đã ngã xuống, dòng sông Thạch Hãn làm mồ chôn tập thể. Có lẽ thấm thía những nỗi đau này mà người Quảng Trị ngày đó đã thốt lên:
“Đây Đại Lộ Kinh Hoàng, ghi lắm cảnh tang thương, muôn thủa khôn phơi niềm tủi hận.
“Nọ dòng sông Bến Hải, khơi bao nguồn sóng gió, ngàn năm luống chạnh nỗi phân ly".
Kẻ ngược vào Nam nhớ thời tao loạn, thương quê mình bom đạn thiêu người, ngậm ngùi đất khách vá áo chép kinh. Mãnh áo thư sinh, sân trường Nguyễn Hoàng bụi mờ thời gian… Cửa thiền bặt dấu, thân gầy áo nâu, dòng sông cũng im tiếng gọi đò đưa khách dừng chân Chùa Phật Học. Hoang phế, ngôi Bồ Đề xưa giờ là chứng tích duy nhất của chiến cuộc Trị Thiên còn lại.
Người xuôi về Bắc ai nhắc đến chiến truờng xưa mà không khỏi ngậm ngùi nhớ một Khe Sanh bên nắng đốt …của vùng đông Trường Sơn với trận địa Hạ Lào ác chiến. Chân quê áo vải, thương người mẹ Do Linh hình ảnh liệt nữ buổi thư hùng; còn đây dấu tích một Thành Cổ máu xương trộn lẫn vào đất mẹ hoà non sông viết nên Thiên Sử.
Và giờ đây, cái thông tin “Hy sinh ở chiến trường miền Nam” của hàng ngàn gia đình miền Bắc có người thân hy sinh đang dựa vào để đi tìm hài cốt, tìm đồng đội mất tích sao nghe vời vợi….Miền Nam ngày ấy chính là từ Quảng Trị trở vào. Thương kiếp người chiến tranh ly loạn gây nên:
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô định biết nơi chốn nào.
Chính chúng tôi đây khi tuổi nhỏ cũng từng chạm vào chứng tích đau thương của cuộc chiến đã qua. Lúc dưới mười tuổi, chạy chơi theo bọn trẻ hàng xóm ra đồng, nghịch những lùm cỏ bờ mương để xem ốc cá, tôi thấy một cái dây dù lộ ra trên mặt đất. Con trẻ mà thấy vậy thì tò mò và ham thích. Chúng tôi xới đất lần theo. Dây ăn sâu dưới mặt đất. Kéo sợ đứt dây nên phải cẩn thận lần theo để lấy cho bằng được nguyên sợi dây. Lần sâu xuống một đoạn chúng tôi gặp đầu dây, và phơi ra một phần bề mặt ni long. Lần thêm tí nữa thì thấy cả khối gì nằm trong ni long. Lúc đó có người lớn đi ngang, thấy vậy họ bảo: xác chết Bộ Đội đó. Bọn trẻ chúng tôi giật mình bỏ chạy. Sau đó người lớn đến và họ đã đào lên được một hài cốt Bộ Đội còn nguyên bộc trong tấm ni long nằm dưới mương nước, gần bờ ruộng.
Nếu là người Quảng Trị quý vị sẽ hiểu được điều này: “Không một mương nước, bờ ruộng, mảnh vườn hay con đường nào khắp trên vùng đất Quảng Trị mà không có xác Bộ Đội được chôn vội lấp hờ đâu đó đang yên nghỉ”.
Đúng vậy, sau năm 1975, chính quyền huy động quy tập hài cốt Liệt sĩ về một nơi để thành lập Nghĩa trang. Trong mảnh vườn Thụy Ứng, có đến ba bộ hài cốt. Một người chúng tôi biết được tên, đó là Liệt sĩ Lưu Đức Quý, người tỉnh Thái Bình hy sinh năm 1972. Ba người, là bởi chúng tôi được báo trong giấc mộng, nhưng rồi chỉ tìm được một.
Gần đây tôi tham gia một số lần đi tìm mộ các liệt sĩ hy sinh chiến trường Quảng Trị; Hài cốt tìm được trong một mảnh vườn, bên một dòng sông sắp lở, cạnh một con đường Quốc lộ Nam Bắc .v.v
Thưa quý vị! Một Thành Cổ Quảng Trị sau 82 ngày đêm đã vĩnh viễn nằm lại hàng vạn chiến sĩ, một Đại lộ Kinh Hoàng từng phơi thây hàng vạn đồng bào chạy loạn, một hàng rào điện tử Mácnamara gây kinh hoàng với bao cái chết tan thây nát thịt vùi xuống dòng Bến Hải, một tử địa Lao Bảo chốn tù đày có đi không trở lại của bao người con anh dũng.v.v Hiện hữu giờ đây, hai Nghĩa Trang Quốc gia Trường Sơn và Đường 9, với hàng vạn nấm mồ có tên và không tên của các chiến sĩ đang yên nghỉ trên đất Quảng Trị. Còn nữa, khắp trên cả tỉnh, mỗi xã mỗi huyện điều có nghĩa trang làm nơi an nghỉ của các Anh linh chiến sĩ.
Nếu bạn đã đọc đến đây xin hãy dành ít giây phút thật yên lặng sâu thẳm để tưởng niệm và hình dung thế hệ cha ông đã ngã xuống mãi mãi nằm lại trên mảnh đất Quảng Trị mưa bụi gió táp, nơi từng được mạnh danh là “cối xay thịt” của chiến trường xưa. Xin cùng chúng tôi tri ân, thấy rõ giá trị của bình yên hôm nay chúng ta đang thừa hưởng.
Trở về Quảng Trị để hành đạo và lập Am tu hành từ năm 2007, chúng tôi có duyên phát nguyện cúng lễ cầu siêu hàng tháng tại nghĩa trang Trường Sơn và Đường 9 từ đó đến nay. Bước vào năm thứ tư chúng tôi phát tâm thiết lập Trai Đàn Bạt Thuỷ trên dòng sông Thạch Hãn.
Tâm nguyên này của Am Thụy Ứng chúng tôi đã được Hoà Thượng Trưởng BTSGHPGVN tỉnh Quảng Trị, Thích Thiện Tấn vô cùng tán thán. Thỉnh thị ý kiến của Hoà thượng Thích Thiện Tấn, và đi đến thống nhất, Tỉnh Giáo hội sẽ cùng với chúng tôi đứng ra tổ chức Đại lễ long trọng linh thiêng và ý nghĩa này. Đây là lần đầu tiên Một Trai đàn lớn được thiết lập trên dòng sông Thạch Hãn, do chính GHPG tỉnh Quảng Trị đứng ra tổ chức, chủ nhân của chính mãnh đất nhiều tang tốc binh biến này.
4 - TẦM VÓC ĐÀN PHÁP Trai Đàn Chẩn Tế, Bạt Độ Giải Oan, đã từng được tổ chức trong Thành Cổ Quảng Trị. Và những khi như vậy đều có thượng phan sơn - thuỷ. Phan Sơn, dùng chiêu hồn người chết trên cạn. Phan Thuỷ, dùng chiêu hồn người chết dưới nước. Đơn thuần là vậy khi lập đàn Chẩn tế. Chính vì vậy mà một cành phan chiêu hồn không đủ năng lực đưa người trầm thuỷ vượt khỏi mặt nước để tựu về nghe kinh chuyển hoá. Vì vậy chúng tôi mới vận dụng đến Đàn Pháp Bạt Thuỷ.
Cuộc chiến khóc liệt, đã đưa hàng ngàn chiến sĩ hy sinh bỏ mình dưới dòng sông sâu, nên không thể nhờ một cành phan mà giải được ách nạn thống khổ kia của bao năm dai dẵng hờn oan thọ nghiệp.
Chúng tôi sẽ thỉnh mời hai bộ Kinh Sư, dựng lập đàn pháp ở cả hai bên bờ sông Thạch Hản. Ở bờ Nam sẽ có lễ thỉnh linh ở Đại Lộ Kinh Hoàng và trong Thành Cổ về dự Đàn. Ở bờ Bắc sông sẽ có lễ thỉnh Linh ở hai nghĩa trang Trường Sơn và Đường 9 về dự Đàn.
Thuyền được kết thành bè nối dài từ hai bờ ra đến giữa sông để dựng đàn trên dòng sông. Hai bộ Kinh sư cùng dự Đàn Bạt Thuỷ. Vô số Hương linh được vớt lên trong Đàn Bạt Thuỷ sẽ được thỉnh về an trí hai bên bờ sông để hai bộ kinh sư đăng Đàn Bạt Độ, Giải Oan đoạn nghiệp cho chư Anh linh chiến sĩ và sau đó kết thúc bằng đăng đàn Chẩn Thí.
Tối đêm 20 sẽ có đêm pháp hội hoa đăng. 20.000 ngọn nến, chia đều theo hai bên bờ được thả xuống trên dòng sông thắp sáng cùng với âm vang trì tụng câu thần chú vĩ đại của đức Quán Thế Âm: UM MANI PADME HUM.
5- DỰ KIẾN SỐ LƯỢNG QUÝ THẦY CÓ MẶT LẬP ĐÀN:- Đại Lão Hòa Thượng Chứng Minh: 20 vị
- Hòa Thượng chủ sám: 2 vị
- Hòa Thượng Pháp sư: 2 vị
- Đại Đức công văn 2 vị
- Đại Đức kinh sư: 12 vị
- Chư Tăng mời dự lễ Trai Tăng, dự kiến: 200 vị
6 - NHỮNG GIA ĐÌNH CÙNG THAM DỰ :Đi lại nhiều nơi, thấy nhiều gia đình do tổ tiên và người thân không được siêu thoát mà liên lụy đến người sống, nhưng họ không hay biết. Có nhiều gia đình biết là do chịu sự oan khổ trong cõi Âm của người mất, nhưng vì không ai hướng dẫn để tìm cách lập đàn siêu độ đúng cách. Có người do mãi miết làm ăn, người thì vì điều kiện kinh tế khó khăn, người thì do không tin, hay không thể hiểu hết về cõi giới Âm linh.v.v mà đành để cho người mất gánh chịu oan nghiệp, dày xéo thống khổ. Đất nước chúng ta lại là đất nước nhiều Chiến tranh, thiên tai và tai nạn giao thông xãy ra hằng ngày. Hơn nữa, nhất là khi chết, người thân vì không hiểu biết để trợ niệm lúc lâm chung cho người sắp mất, nên chết đi bao năm mà không thể tìm được cơ hội tái sinh hay siêu thoát.
Nếu hiểu được như vậy quý vị hãy nhân cơ hội này vì người Quá cố mà góp sức, phát nguyện cùng chúng tôi tạo nên sự hùng hậu cho Đàn Tràng, nhờ phép lực vô biên của Tam Bảo giải tỏa oan khiên nghiệp chướng cho chư Anh Linh Chiến Sĩ, Nam Nữ Trận Vong, Đồng Bào Tử Nạn, Cửu Huyền Thất Tổ, Thân Nhân Nam Nữ đã quá vãng.
Danh sách tên tuổi cầu siêu gởi về thì không giới hạn. Quý vị gởi tên tuổi những chiến sĩ từng hy sinh ở chiến trường Quảng Trị. Gia đình nào thực sự vì người thân muốn lập đàn, thì đây là cơ hội để cùng chung sức chú nguyện lớn.
7 - ĐÔI LỜI KHUYẾN HOÁ.Kính thưa quý vị! Để một Đàn Pháp như thế được thực hiện và đi đến hoàn nguyện tốt đẹp, có chất lượng nội dung chú trọng vào cầu nguyện siêu bạt vong linh chúng tôi nghĩ phải cần đến một kinh phí nhất định. Bao nhiêu máu xương đã đổ xuống, bao nhiêu mất mát đã trải qua, thì quả thực chúng ta không cân đếm được công lao của lớp người đã ngã xuống cho bình yên hôm nay ta đang thừa hưởng. Chỉ là chúng ta muốn gởi gắm đến hàng triệu Anh linh oan hồn tử nạn chiến tranh đã vĩnh viễn nằm lại trên dòng sông Thạch Hãn, rằng thế hệ hôm nay chúng ta luôn khắc ghi vào lòng mình niềm tri ân vô hạn đối với các Anh. Để cả hai đàn pháp cùng lúc được dựng lên, và đàn Bạt Thuỷ dựng được trên sông với số lượng tu sĩ và người tổ chức quả thật phải cần đến một kinh phí nhất định mới trang trải được.
Với kinh nghiệm lập đàn chúng tôi thấy rõ được điều đó. Dự kiến ban đầu cho việc thuê thuyền và 2 nhà rạp lớp, hệ thống đèn và âm thanh, xe đi lại cung đón chư tôn đức, các băng rôn, các biểu ngữ in lời Kinh, và hệ thống tượng pháp để lập đàn đã chiếm một lượng kinh phí khá lớn.
Xin quí vị Tăng Ni Phật tử gần xa đều phát tâm trợ giúp cho Đàn Tràng được viên mãn! Đàn Tràng rất cần đến sự đóng góp của Quí đoàn thể, doanh nghiệp, cá nhân phát tâm tài trợ.
Nam mô công đức lâm Bồ tát Ma Ha Tát!(Những ai liên hệ ghi tên cầu siêu, chúng tôi sẽ gởi thêm chi tiết đến quý vị)
- Mọi liên lạc có thể gởi về trực tiếp hoặc qua địa chỉ:
Thích Minh Thông - Am Thụy Ứng. Thôn Thi Ông, xã Hải Vĩnh, huyện Hải lăng, tỉnh Quảng Trị.
- Điện thoại: 053.3875418. 0989230449.
- Số tài khoản: 040001403372. Ngân hàng Sacombank. Triệu Hải, Triệu Phong, Quảng Trị.
- Hoặc điện thư: thichtamhiep@gmail.com quý vị có thể tìm hiểu thêm qua websites: amthuyung.com
Am Thuỵ Ứng Tiết đầu xuân năm Tân Mão Thích Tâm Hiệp