*
* *
“Ta không là Thượng đế, cũng không phải là thần linh, mà chỉ là một con người, nhưng con người đã chiến thắng thế gian”.
Đức Phật đã chiến thắng thế gian, nhưng Ngài không cần ngai vàng để ngự trị và cũng không cần thần dân để được tôn vinh. Ngài sống rất thảnh thơi với ba mảnh y và một bình bát, nhưng chiến thắng được tâm mình để sống với chơn tánh mới là cái chiến thắng vĩ đại của bậc Đại giác, Đại hùng vậy. Chỉ sau khi Ngài nhập diệt, con người mới tôn thờ Ngài, sùng tín Ngài như các vị thần linh. Tóm lại, Đức Phật chỉ là một đạo sư, là ngọn đuốc tuệ để giúp chúng sinh nương theo đó mà tìm ra con đường sáng, con đường giải thoát giác ngộ cho chính mình.
Để giải thích mối quan hệ giữa lòng tin và trí tuệ, Đức Phật dạy rằng:
“Người có lòng tin mà không có trí tuệ thì thường làm tăng trưởng vô minh. Người có trí tuệ mà không có lòng tin thì thường làm tăng trưởng tà kiến”.
Trí tuệ ở đây cần được hiểu là năng lực suy xét và phán đoán mọi sự việc cho nên nếu trí tuệ không có lòng tin vào Chánh pháp thì người tu tập dễ rơi vào tà kiến, tăng trưởng tự cao, tự đại, luôn cố chấp không thấy được chỗ sai lầm của mình. Ngược lại, người có lòng tin vào Chánh pháp mà thiếu đi trí tuệ để nhận hiểu và phân biệt đứng đắn thì dễ dàng lún sâu vào chỗ si mê, tăm tối, mê tín dị đoan. Vì thế mà trong Bát Chánh Đạo tức là tám con đường chân chính giúp chúng sinh chuyển cuộc sống từ phàm đến thánh chỉ có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định mà không hề có chánh tín.
Đức Phật không phải là đấng thần linh nên Ngài không bắt buộc chúng sinh phải tin vào Ngài một cách tuyệt đối. Ngược lại, Đức Phật dạy chúng sinh phải tư duy quán chiếu, suy nghiệm những lời Phật dạy một cách khách quan, đứng đắn thì mới có lợi ích cho mình. Đức Phật muốn chúng sinh thấu hiểu chánh pháp để thấy biết đúng, suy nghĩ đúng mà có cuộc sống thanh bình an lạc thì lúc đó con người đâu còn tin vào tà kiến, mê tín dị đoan. Vì thế hãy lắng nghe thông điệp của Đức Phật chính là con đường sống cao thượng của cuộc đời:
“Hãy tránh xa tất cả những hành động tội lỗi, trau dồi cuộc sống bằng những hành động tốt, thanh lọc tâm trí khỏi những ý nghĩ bất tịnh”.
Trước khi nhập diệt, Đức Phật dạy rằng:
“Các con là những hải đảo, những ngọn đuốc cho chính mình. Hãy nương tựa vào chính mình, không nương tựa vào nơi nào khác”.
Trong kinh Pháp Cú, Phật lại dạy thêm:
“Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi! Các con hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tu giải thoát! Đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các con”.
Và sau cùng Đức Phật dạy rằng:
“Các con hãy tự cố gắng, Như Lai chỉ là kẻ dẫn đường”.
Đạo Phật là tôn giáo duy nhất trên hoàn cầu xác định rằng cánh cửa thành công để đạt đến cứu cánh giải thoát giác ngộ phải mở rộng cho tất cả mọi người, từ nam nữ, lớn nhỏ, sang hèn, cao thấp, đạo đức hay tội lỗi. Nếu chúng sinh biết cải thiện đời sống trong sạch, hóa giải hết phiền não vô minh thì sẽ có được Bồ-đề, Niết bàn như Phật.
Không phải ngày nay con người mới nghe đến những tôn giáo thuộc về “Thiên chủ tạo vật” mà vào thời Đức Phật đã có những giáo thuyết như vậy rồi. Đó là “Thượng đế tạo ra tất cả mọi người, mọi vật. Thượng đế chịu trách nhiệm tất cả mọi việc. Thượng đế ban thưởng và tha thứ tội lỗi của chúng ta. Thượng đế chịu trách nhiệm về cuộc đời chúng ta sau khi chúng ta chết. Thượng đế sẽ cho ta lên thiên đường hay bắt ta xuống địa ngục”. Ở đây, Đức Phật không hứa hẹn hạnh phúc hay ban thưởng cho những ai tự nhận là tín đồ của Ngài và Ngài cũng không hứa hẹn cứu rỗi cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài. Đức Phật không khuyên các đệ tử của Ngài đi cải đạo dân chúng, những người mà nếu không theo sẽ bị đọa vào địa ngục.
Ngài và tín đồ của Ngài không chỉ trích những người khác đạo là những người phạm tội sẽ bị đọa vĩnh viễn nơi địa ngục. Theo tinh phần Phật giáo, cả đến những người không đạo nhưng biết sống trong phẩm hạnh và có lòng từ bi thì vẫn có thể lên thiên đường như thường. Đối với Ngài, tôn giáo không phải là sự mặc cả, mà là con đường sống cao thượng để đạt đến cứu cánh tột đỉnh là giải thoát giác ngộ. Đức Phật không muốn các tín đồ của Ngài tin tưởng trong mù quáng. Ngài muốn chúng sinh phải biết suy nghĩ và thấu biết. Phật giáo là con đường cao thượng cho đời sống mà nơi đó, nhân đạo, bình đẳng, công bằng và an lạc chiếm vị trí tối thượng.
Đức Phật phủ nhận có đấng Phạm thiên, Thượng đế vì chỉ có ta mới chính là Thượng đế của chính mình và chỉ có ta mới có thể tự lèo lái con thuyền định mệnh của mình được. Đức Phật không dạy phải cầu nguyện và sùng bái Ngài để được Ngài tha thứ cho các tội lỗi. Thanh tịnh hay ô nhiễm trong tư tưởng của chúng sinh tùy thuộc nơi chúng sinh. Không một đấng thiêng liêng, Phật hay một tha nhân nào có thể làm ô nhiễm hay thanh tịnh tư tưởng của người khác được. Ngay cả Niết bàn là hạnh phúc tuyệt đối cũng thế, khi chúng sinh tự mình quét sạch được những dục vọng, luyến ái và vị kỷ thì chính họ sẽ nghiệm chứng sự an lạc tịch diệt của Niết bàn chớ Niết bàn không phải do Như Lai ban tặng được.
Một ngày nọ, Đức Phật thấy những người Jalita lặn lội dưới nước trong khi tuyết xuống liên tiếp trong 7 ngày đêm để tế thần lửa tại bờ sông Gaya, Đức Thế Tôn dạy rằng:
“Sự trong sạch do rửa bằng nước không bao giờ có. Người nào tắm trong giòng nước Chân thật và thiện pháp thì người đó mới là người trong sạch”.
Đức Phật đã khẳng định rằng tất cả các thứ nước trên thế gian này kể cả nước thánh thì không có thứ nước nào rửa sạch được lòng hung ác để trở thành tâm lương thiện. Chỉ có chân lý Tứ Diệu đế và Thánh pháp mới làm cho con người trở nên trong sạch, trở thành Thánh nhân. Đó chính là nước vô hình rửa được vô minh phiền não trong tâm của chúng sinh.
Một hôm khác, Đức Phật đang thuyết pháp, có vị Bà la môn tên là Sudarika bạch với Phật rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn! Ngài có đến con sông Bahuka để tắm không?
- Này, Thầy Bà la môn! Con sông đó có gì đặc biệt?
- Thưa Thầy Cồ Đàm! Con sông Bahuka là nơi mà mọi người cho đó là giòng sông Phước nên hàng ngày biết bao người đến tắm để rửa tội.
Bây giờ Thế Tôn mới dạy:
- Người thiếu trí, tạo ác nghiệp cho dù có đến tắm những giòng sông Bahuka, sông Gaya, sông Sarassati, sông Payaya và sông Bahumati thì những con sông ấy không thể làm cho người ác hết tội. Người đã tạo ác nghiệp thì không có giòng sông nào làm cho họ trong sạch được.
- Này Thầy Bà la môn! Thầy nên tắm, rửa tội thứ nước mà Như Lai đã dạy là : người không nói dối, không làm hại chúng sinh khác, không nên lấy của người, không nên bỏn xẻn keo kiệt. Ngược lại, tuy Thầy có đi đến con sông Gaya và uống nước ấy cũng không ích lợi gì cho Thầy”.
Do đó sự rửa tội và sự đưa chúng sinh lên thiên đàng không hề bao giờ có trong đạo Phật và chính Đức Phật đã phủ nhận nói rằng Ngài có oai lực đưa người đi được đến Thiên đàng, Cực Lạc. Vì vậy mà đạo Phật mới gọi là đạo Tự giác. Đức Phật là đấng đã thức tỉnh trong giấc mộng vô minh và lời dạy của Ngài kêu gọi chúng sinh nên thức tỉnh nghĩa là Phật dạy chúng sinh phải tự mình tu và cố gắng giải thoát lấy mình chớ đừng mong đợi Phật có oai lực cứu độ mình. Nói cách khác, người muốn no hãy tự ăn lấy mới no, kẻ khác không thể ăn cho mình no được.
Vì thế bất cứ ai cũng có thể đứng trước Đức Phật trong tư thế một người có phẩm cách chớ không phải trong tư thế một người cầu khẩn, van xin.
Hãy lắng nghe lời phát biểu của giáo sư Lakshmi Nasara viết trong cuốn “Tinh Hoa của Phật giáo”:
- Chỉ nói về Phật giáo thôi, ta có thể xác nhận là tôn giáo này thoát khỏi tất cả cuồng tín. Phật giáo nhằm tạo trong mỗi cá nhân một sự chuyển hóa nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy mình.
Từ xưa đến nay, lý trí và đức tin luôn chống đối với nhau. Lý trí thì dùng lý luận và suy tư phát xuất từ kinh nghiệm và nhận xét, trong khi đức tin nằm trong phạm vi tình cảm, không thể suy luận, suy xét hay giảng giải được. Do đó những tôn giáo thần khải thì đức tin là thượng đế cảm nhận bằng trái tim, không phải bằng lý trí. Tình thương phát xuất bằng trái tim thì dựa vào tình cảm nên rất thăng trầm vì thế nó có lúc đúng, có lúc sai, có lúc thương có lúc ghét. Ngược lại lòng từ bi phát xuất từ trí tuệ sáng suốt thì dựa theo tinh thần khách quan bình đẳng, không thiên vị. Thêm nữa, đối với những tôn giáo thần khải thì thần thông, phép lạ là quan trọng. Ngược lại Đức Phật coi đó là không đáng kể và không thích đáng bởi vì điều quan trọng nhất vẫn là bồi dưỡng trí tuệ để có giải thoát giác ngộ. Đối với đạo Phật, những người có phép lạ không nhất thiết là bậc giác ngộ hay các bậc Thánh cho nên theo Đức Phật, thần thông phép lạ cao siêu nhất và huyền diệu nhất phải là làm sao biến một người ngu si thành một người khôn ngoan, trí tuệ.
Vậy đạo Phật có phải là một tôn giáo không?
Dựa theo lời giải thích của học giả H. G Wells thì tôn giáo là trung tâm của giáo dục xác định luân lý phẩm hạnh của con người.
Triết gia Aldous Huxley định nghĩa tôn giáo như sau:
- Tôn giáo là một hệ thống giáo dục, bằng các phương tiện con người có thể tự mình huấn luyện cho mình. Trước hết là thay đổi cái mình mong muốn cho đúng với nhân cách của mình trong xã hội. Thứ hai là nâng cao lương tri và thiết lập quan hệ giữa con người và vũ trụ mà họ là một thành phần trong đó.
Thông thường tôn giáo luôn đi đôi với tín ngưỡng vì thế tất cả những tôn giáo trên thế giới đều tin tưởng đấng thần linh này, đấng cứu rỗi nọ, ông trời mình và ông trời người. Duy chỉ có Phật giáo là không tin vào thần linh, không tin vào thượng đế, không tin vào ai cả mà chỉ tin vào khả năng tự mình có thể giải thoát ra khởi mọi hệ lụy của phiền não vô minh cho chính mình mà Đức Phật là người dẫn đường, là bậc toàn giác.
Đạo Phật khai mở một hệ tư tưởng triết học rất thâm thâu huyền diệu dựa vào tư tưởng tánh Không (Bát nhã) để dẫn dắt chúng sinh quán triệt thật tướng của vạn pháp chớ không nhất thiết chỉ thấy biết vạn pháp qua thế giới hiện tượng. Những lời dạy thâm sâu của Đức Phật để đưa tâm quy về một trạng thái tinh thần tĩnh lự và sáng suốt được nhiều người cho đó là tôn giáo, người khác lại cho là triết học hay tâm lý trị liệu. Vì vậy, khi đề cập đến thế giới bản thể và hiện tượng là một vấn đề rất quan trọng, một vấn đề mang tính triết học sâu xa, nếu con người nhìn nó qua lăng kính của triết học.
Nhưng đối với Phật giáo, cho dù con người có gọi nó là tôn giáo, nền giáo dục, môn triết học hay là gì đi chăng nữa thì điều đó chẳng có giá trị thêm bớt gì vì lý luận là còn nằm trong vòng lẩn quẩn của Nhị nguyên, của thế giới tương đối có sinh có diệt. Mà điều quan trọng hơn hết là những lời thuyết pháp của Đức Phật nhằm nói lên chân lý khách quan, nói lên cái nguyên thủy của sự hình thành và sự tồn tại khách quan của vũ trụ vạn hữu. Nhưng cho dù con người có lý luận dựa theo bất cứ khía cạnh, phương diện nào thì có một điều chắc chắn mà mọi người đều đồng ý rằng Đức Phật không phải là đấng thần linh, đấng cứu rỗi mà Ngài chỉ là đấng toàn giác, là bậc thầy vĩ đại mà thôi.
Vì vậy, đạo Phật có thể được gọi là một tôn giáo không có tín ngưỡng. Tại sao lại không có tín ngưỡng? Bởi vì đạo Phật là con đường giúp chúng sinh tự mình thể nghiệm chân lý để có giải thoát giác ngộ mà không tin có một đấng Thượng đế, một đấng thần linh nào đó có thể ban vui cứu khổ hay cứu rỗi cho họ được. Mà muốn đạt đến cứu cánh tột đỉnh này, người đệ tử Phật bắt buộc phải có niềm tin. Nhưng niềm tin ở đây là tin vào lời dạy chân thật của Đức Phật là người đã thực chứng những chân lý nhiệm mầu bởi vì lời dạy của Phật là : ”Như Lai thị chơn ngữ giả, thật ngữ giả, bất dị ngữ giả, bất cuống ngữ giả” nghĩa là lời nói của Phật là chân chính, là thành thật, không tráo trở và không bao giờ dối trá. Quan trọng hơn là người đệ tử Phật phải tin chính mình có khả năng hóa giải, diệt trừ mọi vô minh phiền não để đạt được tâm thanh tịnh mà có Niết bàn, có Bồ-đề cũng như chư Phật, chư Bồ-tát vậy. Đức Phật dạy chúng sinh phát triển những tiềm năng và nỗ lực của chính bản thân mình để đạt đến trạng thái an lạc và hạnh phúc tuyệt đối Niết bàn. Do đó hạnh phúc hay khổ đau là do nơi con người chớ không tùy thuộc vào một đấng quyền năng tuyệt đối nào và Đức Phật chỉ là một bậc thầy hướng đạo. Đức Phật đã trải qua bao nhiêu khổ ải và đau đớn để đạt đến an lạc, thanh tịnh Niết bàn vì thế Ngài chính là biểu tượng của An lạc, Từ bi và Trí tuệ.
Vậy người đệ tử Phật phải có những đức tin gì?
1) Tín tự: tức là tin ở trong ta, chính mình có khả năng tu thành Phật nhưng vì bị vô minh che lấp nên vẫn còn sống trong điên đảo khổ đau.
2) Tín tha: không có nghĩa là tin vào tha lực của chư Phật để được cứu giúp hoặc được vãng sanh về thế giới cực lạc mà chính mình không chịu lo tu sửa, hóa giải phiền não vô minh. Đây là hoàn toàn trái ngược với luật nhân quả của Phật giáo. Tín tha ở đây là tin vào lời dạy chân thật của Phật vì đây chính là con đường, là ánh sáng huyền diệu giúp chúng sinh hóa giải tất cả những vô minh phiền não trong cuộc sống này. Vì Phật là người đã giác ngộ trước, là người chỉ đường nên chúng sinh nếu không tin vào lời Đức Phật thì làm sao nương theo con đường mà Phật đã đi để có thể chứng đắc được chân lý mà có được giải thoát giác ngộ như Phật. Nếu chính mình không hóa giải hết phiền não vô minh, cho dù Phật A Di Đà có rước về tây phương cực lạc thì tự mình cũng không có thanh tịnh cực lạc được. Vì thế kinh Duy Ma Cật đã khẳng định là: "Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” nghĩa là hễ tâm mình được an vui thanh tịnh thì thế giới mình đang sống sẽ chính là thế giới cực lạc vậy.
3) Tín Nhân, Tín Quả: Ngoài tín tự, tín tha, trọng tâm của đạo Phật vẫn là tín nhân tín quả. Con người phải tin chắc rằng hễ mình gieo nhân gì thì chính mình sẽ nhận lấy quả báo của nó. Nên nhớ rằng không có một tha nhân nào trên thế gian này có thể thay nhân đổi quả của người khác được mà chỉ có mình mới lèo lái con thuyền định mệnh của chính mình mà thôi. Con người không cần phải cầu nguyện, van xin để chư Phật độ cái này, thưởng cái kia vì có van xin cầu nguyện cũng không bao giờ được, bởi vì nó đi ngược với luật nhân quả. Nhưng nếu chúng sinh muốn biết cuộc sống mình sẽ ra sao thì chỉ cần nhìn kỷ vào tất cả những nhân thiện ác mà chính mình đã tạo tác thì chắc chắn sẽ biết mình sẽ được thọ báo những hạnh phúc hay khổ đau. Muốn có cuộc sống hạnh phúc yên vui thì nên gieo nhân lành, ngược lại gieo nhân bất thiện thì phải chịu cảnh khổ đau, bất toại nguyện, thế thôi.
Ngày nay có rất nhiều đệ tử Phật vẫn còn nhầm lẫn về hai chữ: “Phật độ”. Phật độ không có nghĩa là mình cầu nguyện, van vái điều gì thì Phật độ, Phật ban cho điều ấy. Mà Phật độ ở đây chính là Phật chỉ dạy cho chúng sinh con đường giải thoát giác ngộ để tự mỗi chúng sinh tùy theo bổn nguyện, căn cơ và hoàn cảnh của chính mình mà tự mình hóa giải những hệ lụy của phiền não vô minh. Có bớt được một phần phiền não vô minh thì có được một phần Bồ-đề Niết bàn. Do đó Phật độ là Phật giúp cho chúng sinh phương tiện tức là kinh điển, nhưng chính chúng sinh phải tự mình chèo, lái, thực hành và sống với chánh pháp thì mới có giải thoát, an vui và tự tại. Ngược lại nếu chúng sinh ngồi thiền, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, van vái, cầu nguyện mà tự mình không chịu lo tu sửa, tánh tham tật đố không chừa, tâm còn giận còn hờn, lòng còn chạy theo si mê ái dục thì đây chỉ là tu hành theo hình thức, không có một ý nghĩa hay giá trị nào hết.
Ngày xưa khi tôn giả Mục Kiền Liên cầu khẩn và bạch với Phật xin thương xót cứu vớt mẹ Ngài là bà Thanh Đề ra khỏi địa ngục A Tỳ. Tại sao Phật không làm phép, bắt ấn tam muội để bọn quỷ sứ ma vương thả bà Thanh Đề về? Không phải là Phật không làm được, nhưng Ngài không làm vì đây hoàn toàn trái với luật nhân quả. Nếu bà Thanh Đề đã gieo những nhân bất thiện thì chỉ có bà phải tự mình ăn năn sám hối để chuyển cái tâm tội lỗi xấu xa thành cái tâm thuần lương tươi sáng. Có như thế thì chính bà tự bẻ gãy gông cùm nơi địa ngục mà hóa sanh về cảnh thiên đường an lạc.
Chẳng những Phật giáo phủ nhận Thượng đế mà Phật giáo cũng không chấp nhận Diêm vương là người có quyền phán xét tội hồn trong cõi âm. Khi nói về cõi âm, hai quyển “Hồi dương nhân quả” và “Ngọc lịch minh kinh” không phải là kinh sách của Phật giáo vì nó diễn tả một câu chuyện xảy ra ở Trung Hoa của hai người trùng tên nhưng khác họ, bị quỷ bắt lầm rồi sau đó trả hồn về thế gian. Thật ra ông Diêm vương mà người thế gian thường nhắc đến không phải phát xuất từ Phật giáo mà nó đã xuất hiện rất lâu trong những kinh sách Vệ Đà của Ấn Độ. Vì thờ đa thần nên họ nghĩ rằng trên trời thì có thiên thần, ở giữa hư không có hư không thần và trong đất cũng có địa thần…Vì thế người Trung Hoa mới sao lại những vị Diêm Vương cai quản 18 tầng địa ngục. Nhưng trong thế gian có biết bao giống dân như Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Gia Nã Đại… thế thì tại sao ông Diêm vương phải lại là người Trung Hoa? Phải ăn mặc giống như cải lương, hát bội vậy?
Đây phải chăng là do óc tưởng tượng của người Trung Hoa bày vẽ ra? Thật sự nếu có vị Diêm vương cai quản cõi âm thì tội hồn cũng có cách hối lộ để được giảm tội hình. Nhưng dựa theo Phật giáo, địa ngục không phải là nơi giam giữ tội hồn đời đời như nhiều người thường nghĩ. Những hình ảnh ma vương, quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa cùng những khổ hình nơi 18 tầng địa ngục chính là sự phóng rọi, biến hiện và trói buộc của Nghiệp cảm mà thôi. Vì vậy, mỗichúng sinh đều có một ngài Diêm vương nơi tâm mình mà họ không tự biết, đó là tiếng nói mãnh liệt của Chơn tâm, Phật tánh và là sự phán xét sau cùng của Chí thiện.
Cũng như Ngài A Nan, cả đời theo chân làm thị giả cho Đức Phật, được Phật khen tặng là đệ nhất đa văn mà tại sao không thành A La Hán trong lúc Đức Phật còn sinh tiền? Không lẽ Phật không thương xót độ cho A Nan thành Thánh? Tất cả những gì Phật độ cho A Nan hay cho tất cả chúng sinh thì Phật đã độ rồi. Đó là Phật đã thuyết 12 bộ đại tạng kinh để giúp chúng sinh tự mình thể nghiệm chân lý. Ông A Nan vì tánh ỷ lại là em và là thị giả của Phật nên không chịu lo tu chứng mà chỉ muốn học rộng biết nhiều vì thế tuy A Nan là người thân cận Đức Phật nhất mà Phật có độ cho A Nan thành A La Hán được đâu!
Do đó sau khi Đức Phật nhập diệt, ông thất vọng, sống trong chán chường đau khổ nên có ý định quyên sinh. Nhưng khi nhớ lại những lời dạy của Thế Tôn làm ông thức tỉnh nên thành tâm sám hối tất cả những việc bất thiện mà ông đã đối xử với Đức Phật trước kia. Khi tâm đã hoàn toàn trong sáng thanh tịnh nên chỉ ngồi thiền một đêm mà ông đạt thành thánh quả. Sự huyền diệu nhiệm mầu của đạo Phật là chúng sinh có thể chuyển “cái tâm” của mình. Nếu tâm cứng ngắc, có tu hay không cũng vậy thì không cách nào con người có thể chuyển từ phàm thành thánh. Vì tâm có thể chuyển được nên ông A Nan mới tu thành A la hán hay Thái tử Tất Đạt Đa mới tu thành Phật được. Câu chuyện của tôn giả A Nan ở trên đã được ghi lại trong Luận Đại Trí Độ như sau:
Ba tháng sau ngày Đức Phật nhập diệt, tôn giả Đại Ca Diếp quy tụ 1000 vị đại A La Hán và cuối cùng chỉ chọn 500 vị để kết tập kinh điển lần thứ nhất trong núi Kỳ Xà Quật, thành Vương Xá. Ông Đại Ca Diếp vào thiền định, rồi dùng Thiên nhãn quán trong đại chúng ai là người chưa sạch hết phiền não (chưa chứng thánh quả A la hán) thì phải mời ra khỏi đại hội. Trong số 1000 người chỉ mình A Nan là chưa thanh tịnh, nên Đại Ca Diếp lấy tay dắt A Nan ra khỏi chúng và nói rằng:
- Nay ở trong chúng thanh tịnh kết tập Kinh tạng, ông chưa sạch kiết sử (còn phiền não) không nên ở đây.
Bấy giờ A Nan hổ thẹn buồn khóc, tự nghĩ:”Ta hai mươi bảy năm theo hầu hạ Thế Tôn, gần gũi chăm sót Ngài, chưa bao giờ bị khổ não như thế này.
Thấy thế tôn giả Đại Ca Diếp nói tiếp:
- Tội của ông là ý Phật không muốn cho người nữ xuất gia, vì ông ân cần khuyên thỉnh, Phật mới cho họ xuất gia, vì lẽ đó mà Chánh pháp của Phật chỉ năm trăm năm là suy giảm. Đó là tội Đột-kiết-la (Dunkrta) của ông.
A Nan thưa:
- Tôi thương xót bà Cù-đàm-di. Lại nữa, theo pháp của chư Phật ba đời đều có bốn bộ chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thiện nam và tín nữ), tại sao đức Thích Ca lại không có?
Đại Ca Diếp nói:
- Khi Phật sắp nhập diệt gần thành Câu thi na, Ngài đau lưng nên cần trải bốn lớp y Âu-đa-la-tăng để nằm và nói với ông” Ta cần nước” mà ông dửng dưng không đi lấy. Đó là tội Đột-kiết-la của ông.
A Nan đáp:
- Khi đó có trên năm trăm cỗ xe băng dòng lội qua làm nước vẫn đục vì thế nên tôi không lấy.
Đại Ca Diếp nói tiếp:
- Dẫu nước bị đục, thân lực của Phật có thể làm nước đục biến thành nước trong, sao ông không lấy? Đó là tội Đột-kiết-la của ông. Ông hãy sám hối đi.
Đại Ca Diếp lại nói:
- Phật đã dạy: “Nếu người khéo tu tập bốn thần túc thì có thể sống thêm hay giảm một kiếp đều được” mà sao ông lại làm thinh không thưa lại. Phật hỏi đến ba lần, ông vẫn làm thinh. Nếu ông thưa với Phật là Phật khéo tu bốn thần túc thì Ngài nên sống một kiếp hay non một kiếp. Do sự lặng thinh của ông mà Thế Tôn mới nhập diệt. Đó là tội Đột-kiết-la của ông.
A Nan đáp:
- Ma che lấp tâm tôi nên không nói được chớ không phải tôi có ác tâm mà không thưa với Phật.
Đại Ca Diếp lại nói:
- Ông xếp y Tăng-già-lê của Phật mà lấy chân đạp lên. Đó là tội Đột-kiết-la của ông.
A Nan giải thích:
- Khi ấy có gió lớn nổi lên mà không ai giúp tôi cầm y nên gió thổi làm y rớt xuống chân tôi chớ không phải tôi không cung kính mà giẫm lên y Phật.
Đại Ca Diếp nói:
- Sau khi Phật nhập diệt, ông bày tướng Mã âm tàng của Phật (bộ phận đàn ông) cho người nữ xem sao không biết xấu. Đó là tội Đột-kiết-la của ông.
A Nan đáp lại:
- Khi ấy tôi suy nghĩ : Nếu các người nữ thấy tướng Mã âm tàng của Phật, chắc họ tự xấu hổ thân hình nữ nhân nên mong muốn được thân nam tử, tu hành Phật tướng, gieo gốc phước đức. Vì thế mà tôi cho người nữ xem chớ không phải không biết xấu mà cố tâm phá giới.
Đại Ca Diếp nói:
- Ông có sáu tội Đột-kiết-la như vậy nên phải sám hối giữa Tăng chúng.
A Nan xin vâng theo lời của Trưỡng lão Đại Ca Diếp mà quỳ thẳng chấp tay, bày vai áo bên phải và sám hối sáu tội Đột-kiết-la.
A Nan bị tôn giả Đại Ca Diếp đuổi ra ngoài không cho tham dự đại hội nên rầu rĩ khóc lóc chứng tỏ lúc bấy giờ tâm A Nan là tâm phàm nhân tức là thức tâm vì vẫn còn duyên với ngoại trần nên còn buồn còn khổ. Tuy khóc than không phải là hành động của bậc thánh, nhưng nó cũng làm diệu phần nào những cơn đau trong tâm cho nên ngay trong đêm đó, A Nan thức tỉnh bèn tọa thiền, kinh hành, tư duy các pháp, ân cần cầu đạo. Tuy A Nan có nhiều trí tuệ, nhưng ngặc nổi kém định lực nên không phá nổi phiền não chướng mà chưa thành thánh giả. Cuối đêm sắp hết, mệt quá muốn nghỉ, nên vừa nằm xuống đầu chưa chạm gối thì bỗng nhiên A Nan tỏ ngộ, như tia sáng lóe lên khiến Ngài nhập định Kim Cang mà phá tất cả các núi phiền não, chứng được tam minh thần thông biến hóa và trở thành A la hán. Ngay đêm đó, A Nan đi đến nhà Tăng gõ cửa gọi thì Đại Ca Diếp hỏi:
- Ai gõ cửa đó?.
A Nan thưa:
- Tôi đêm nay đã dứt hết các lậu.
Đại Ca Diếp nói:
- Không mở cửa! Ông cứ theo lỗ khóa mà vào.
A Nan liền dùng Thần lực theo lỗ khóa mà vào, lạy dưới chân Tăng chúng mà sám hối.
Đoạn kinh trên chứng minh một cách hùng hồn rằng Phật chỉ là người chỉ đường còn đi hay không là do chúng sinh cho nên không có vấn đề cầu nguyện, van xin, vái lạy để thỏa mãn những dục tính vị kỷ của con người trong đạo Phật. Vì thế mà trong Tứ Thập Nhị Chương Kinh (Kinh Bốn Mươi Hai Chương) Đức Phật đã dạy rằng : ”Đệ tử tuy xa ta nghìn dậm, mà luôn nghĩ đến và thực hành giới pháp của ta thì chắc chắn sẽ chứng được đạo quả. Ngược lại, kẻ ở gần bên ta, tuy thường gặp mà không thực hành theo giới pháp của ta, cuối cùng vẫn không chứng được đạo”.
Do đó đối với đạo Phật, vô tâm tức là buông xả mới là cứu cánh tối thượng cho nên người xưa cũng có câu: “Vô tâm đạo nhân” nghĩa là người vô tâm mới là người chân tu. Ngược lại người có trí thức nhạy bén, học rộng hiểu nhiều là những người khó đạt được chân lý vì tâm họ chất đầy ý thức đối đãi phân biệt. Ví cũng như hành giả ngồi trên thuyền, nếu học rộng biết nhiều thì chẳng khác nào chở cả kho tàng kinh điển nặng nề trên một chiếc thuyền nan. Chẳng những không đến được bờ giác ngộ mà cả người lẫn thuyền cùng chìm vào biển trầm luân sinh tử.
4) Tín Sự, Tín Lý: Ngoài ra đạo Phật còn dạy tín sự, tín lý. Đó là:
Chư ác mạc tác
Chứng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo
Nghĩa là tất cả những việc ác chớ có làm, ngay cả những việc ác nhỏ. Chúng sinh nên làm tất cả những việc thiện cho dù đó là một việc thiện nhỏ. Nhiều việc thiện nhỏ sẽ thành việc thiện lớn và những việc ác nhỏ sẽ cộng lại thành đại ác. Cố giữ tâm ý thanh cao thanh tịnh thì nội tâm sẽ trong sáng. Đây chính là lời dạy của chư Phật.
Theo tinh thần tin tưởng đó, đức tin của người Phật tử không đi ngược lại với lý trí và còn đóng một vai trò quan trọng trên con đường giải thoát giác ngộ bằng cánh mang lại nghị lực cho sự tinh tấn, kiên trì tu tập. Không có lòng tin lôi kéo, thúc đẩy, con người sẽ trì trệ, buông lơi và có thể chùn bước trước những khó khăn, thử thách của cuộc đời. Nhưng mê tín và cuồng tín cũng không có chỗ đứng trong đạo Phật bởi vì đạo Phật là con đường của trí tuệ, của sự phá bỏ vô minh. Mà vô minh chính là cội nguồn của mê tín và cuồng tín tức là lòng tin lầm lạc dẫn tới khổ đau.
Ngày nay Phật giáo trên thế giới gồm có Nam tông, Bắc tông và Mật tông, vậy đức tin của họ như thế nào?
1) Đức tin đối với Phật giáo Nam tông, Nguyên thủy hay Tiểu thừa: Nhìn lại những thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt, tinh thần sùng tín bằng những hình thức nghi lễ, sùng bái của một tôn giáo tiếp tục bành trướng trong dân gian làm ảnh hưởng rất lớn cho sự tiến hóa của đạo Phật. Ngay sau khi Đức Phật nhập diệt tại thành Câu thi Na, các vua chúa những quốc gia lân cận kéo binh mã tới tranh dành những di tích hoại thể của Đức Phật, như những viên xá lợi, răng, tóc để đem về thờ phượng tại nước họ. Thật ra sự sùng bái những di tích này hoàn toàn đi ngược lại với lời dặn của Đức Thế Tôn. Trước khi nhập diệt, Đức Phật có dạy rằng :
“Sau khi Thế Tôn nhập diệt, điều mà các con phải giữ gìn là Chánh pháp. Chính chánh pháp sẽ thay thế ta trên cõi đời này. Hãy giữ gìn lấy Chánh pháp”.
Đáng tiếc thay, phàm phu nhìn Chánh pháp như là một cái gì quá trừu tượng để có thể nương tựa vào. Trong khi một viên xá lợi, một ngón tay, một chân răng, một ngọn tóc dù không phải là của Đức Phật đi chăng nữa, cũng làm tăng trưởng sự sùng bái của con người. Ngày nay những nước theo Nam tông như Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Kampuchia…đã thần thánh hóa Đức Phật. Người Phật tử ở những xứ này tôn thờ, thành khẩn, cầu xin thì đủ thấy tinh thần sùng tín của họ mạnh mẽ như thế nào.
2) Đức tin đối với Phật giáo Đại thừa: Đặc điểm của Đại thừa là tôn thờ chư Phật và chư Bồ-tát. Từ bi hỉ xã, vì người quên mình là những hạnh nguyện Bồ-tát đạo được khuyến khích nhiều nhất trong các kinh điển đại thừa. Đại thừa có nhiều tông phái cho nên niềm tin cũng tùy theo tông phái mà đổi thay.
- Thứ nhất đối với Thiền tông thì đức tin không phải là một điều quan trọng vì không có gì để tin. Dựa vào tư tưởng Bát Nhã thì vạn pháp giai không duyên sanh như huyễn nên trên thế gian này có cái gì là thật đâu mà phải quan tâm bận lòng. Người tu thiền chỉ cần tin tưởng vào những lời dạy của Phật và khả năng giác ngộ của chính mình tức là tự lực. Bởi vì vạn pháp duy tâm nghĩa là tâm này là chủ, tâm này là Phật, tâm này là tất cả cho nên chúng sinh chỉ cần quay về hồi quang phản chiếu mà sống trọn vẹn với Chơn tâm thì ngay nơi ấy chính là Cực lạc, là Niết bàn rồi. Kinh điển hay pháp tu chỉ là phương tiện, là ngón tay mà chân lý mới là cứu cánh. Lục tổ Huệ Năng cũng dạy thêm rằng : ”Pháp này phải đến trong tánh Phật mà cầu, chớ hướng ngoài thân mà cầu, tự không có bổn tâm. Phải tự thấy bổn tâm, mê thì làm chúng sinh còn giác tức là Phật”.
- Thứ hai đối với Tịnh độ tông thì đức tin bây giờ là chính yếu. Ngược với lối thực hành của thiền là “Không”, tịnh độ thì áp dụng lối “Có”. Có ở đây là tin có Phật A Di Đà, có cảnh tây phương cực lạc, có vãng sanh tức là có chư Phật hay chư Bồ-tát đến dẫn dắt họ về thế giới Tây phương. Người tu theo tịnh độ phải có niềm tin mãnh liệt vào những cái “Có” này để được tái sinh về xứ Phật. Ngài Huệ Viễn vào đời Nam Tống ở Trung Hoa đã khởi xướng tông phái Tịnh độ. Các vị tổ của tịnh độ quan niệm rằng vào thời mạt pháp, người tu Phật không đủ khả năng để tự tu giải thoát cho chính mình tức là “thiếu khả năng tự lực” nên họ kêu gọi đến tha lực của Phật A Di Đà để Ngài cứu độ và truyền sức mạnh vào mình. “Có” và “Không” là tùy theo lối nhìn dựa theo thế giới hiện tượng hay bản thể vì nếu dựa theo sự Tướng bên ngoài thì Có. Còn theo Bản Thể Chân Như thanh tịnh bên trong thì tất cả đều là không.
Nhưng Tâm kinh dạy rằng : ”Sắc tức là Không và Không tức là Sắc” cho nên Có tức là Không và Không chính là Có tuy hai nhưng mà một tức là Bất nhị. Nói một cách khác Thiền là Tịnh và Tịnh tức là Thiền nghĩa là trong Thiền có Tịnh và dĩ nhiên trong Tịnh đã có Thiền rồi. Thí dụ niệm Phật để diệt trừ vọng tưởng trong tâm tức là thiền Chỉ (Xa-ma-tha) nghĩa là tu Định. Quán tưởng Đức A Di Đà tức là thiền Quán (tam-ma-bát-đề) nghĩa là tu quán hay tu trí tuệ. Khi hợp hai lối tu lại với nhau thì gọi là Thiền Na tức là Chỉ-Quán đồng tu hay Định-Tuệ song tu. Do đó “Có” hay “Không” chỉ là phương tiện, là cách nói chứ không phải là cứu cánh bởi vì Chân Tánh thì chẳng phải có mà cũng chẳng phải không. (Trung Quán Luận).
Nếu nhìn vào một khía cạnh tâm lý thì đức tin của người Phật tử tu theo tịnh độ không có vẻ gì khác biệt với đức tin của tín đồ Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo tức là đức tin hướng về Thượng đế, chúa Giê-Su hay Allah. Vì có sự tương đồng này mà ngày nay những quốc gia tân tiến tại Âu châu, Mỹ châu, ngay cả Úc châu nơi mà Tịnh độ tông phát triển mạnh nhất trong cộng đồng người Trung Hoa và số ít Việt Nam thì pháp môn Tịnh độ hầu như không lôi cuốn được người dân bản xứ. Con người càng văn minh tân tiến thì càng tin sâu vào luật nhân quả nghĩa là “người muốn no hãy tự mình ăn lấy mới no, kẻ khác không thể ăn cho mình no được”. Do đó nếu tin vào tha lực để có sự cứu rỗi thì họ cứ theo Tin lành, Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo chớ cần gì phải cải đạo.
Tín đồ Thiên Chúa chỉ cần tin vào Thượng đế, làm vài điều thiện là được vào nước Thiên đàng mà khỏi phải trường chay khổ cực, nhiếp trọn sáu căn và phải tịnh niệm tương tục tức là ngày đêm chú tâm niệm Phật không gián đoạn. Nhưng đối với người Tây phương thì họ muốn tìm hiểu, nghiên cứu và thực hành những cái gì mới lạ, khác biệt, nằm trong khả năng tự lực của con người chẳng những phù hợp với luật nhân quả mà còn thích hợp với đà phát triển của văn minh khoa học. Phải chăng tư tưởng “tự tu tự giác” là nguyên nhân khiến thiền đại thừa ngay cả thiền minh sát, thiền tứ niệm xứ của Phật giáo nam tông phát triển rất thịnh hành trong cộng đồng người Tây phương? Họ cảm thấy thoải mái hơn khi thực hành thiền để tâm được an tịnh nghĩa là chính họ tự lái chiếc xe định mệnh, tự chèo con thuyền bát nhã để khai tâm mở tánh mà chứng nghiệm được sự thanh tịnh tịch diệt của Niết bàn.
Người Tây phương khi nghiên cứu đạo Phật, học cách tu thiền thì họ cảm thấy thoải mái, an lành và hạnh phúc hơn là lúc họ còn tin ở những đấng thần linh. Đạo Phật không thờ bất cứ vị thần linh nào mà họ chỉ tôn thờ kính quý Đức Phật Thích Ca vì Ngài là bậc giác ngộ chân lý, nói và sống đúng chân lý. Vì vậy nếu người đệ tử Phật biết nói đúng chân lý, sống đúng chân lý thì có an vui, tự tại, Niết bàn cũng như Phật. Họ biết rằng cái thực tại tối hậu tức là trí tuệ Bồ-đề và tịch diệt Niết bàn đã có sẵn trong họ chớ không cần tìm kiếm ở đâu xa. Đó là bớt một phần phiền não thì có một phần Niết bàn, bớt một chút vô minh thì tăng thêm một chút trí tuệ sáng suốt. Niềm an vui hạnh phúc tự tại này không tìm thấy trong tôn giáo của họ. Đây là một thử thách rất thực tế, thích đáng và được đền bù bằng những kết quả tương xứng rất nhiệm mầu ngay bây giờ mà không cần phải trông chờ mong đợi sự ban bố ân sủng do ai hay ở đời sau.
Ngày xưa chính Đức Phật đã đi sâu vào thiền định mà chứng được chân lý và tất cả các đệ tử của Ngài cũng nhờ thiền định mà thành A la hán. Ông A Nan tuy là đệ nhất đa văn, nổi tiếng học rộng biết nhiều mà có tâm ỷ lại, không chịu tu thiền, không vào đại định nên cả đời không đạt thành Thánh quả và phải chịu nạn dâm nữ Ma Đăng Già. Đối với Phật giáo, tư tưởng chính là nguồn gốc của sự mê hoặc làm cho tâm thức con người càng thêm mê muội và vọng tưởng chính là sản phẩm của nó. Vì thế thiền định là phương pháp làm ngưng lại và tiêu diệt những tư tưởng này. Do đó, một khi những làn sóng tư tưởng khuấy động đã chấm dứt thì chúng sinh sẽ nhận thấy ánh sáng mặt trăng chân lý lúc nào cũng chiếu sáng. Từ đây con người sẽ nhận thấy rằng cuộc sống này rất thoải mái, bình an trong cái tâm trạng đầy phúc lạc thanh thản an nhàn.
Bây giờ nếu nhìn Tịnh độ bằng một khía cạnh tâm lý khác thì có người lý luận rằng chúng sinh trong cõi Ta bà luôn lặn hụp, chìm đắm trong biển sinh tử trầm luân và sống trong vô minh điên đảo nên mới cần có Bồ-tát và Phật. Ngược lại trong cõi cực lạc, con người hóa sinh từ hoa sen, muốn gì được nấy, khỏi cần làm ăn cực khổ, muốn ăn gì thì thức ăn tự hiện ra, ăn xong khỏi cần rửa dọn, thức ăn thức uống biến mất. Ngoài lầu vàng gác tía, áo quần vật dụng hiện ra theo ý muốn và sống lâu vô lượng. Nói cách khác trong cõi cực lạc, con người không còn biết khổ, sống quá sung sướng thì đây chính là cực lạc Niết bàn rồi. Thế thì tu để làm gì? Có khổ mới tìm Niết bàn, có vô minh mới cầu Bồ-đề. Không biết tam khổ, bát khổ thì Tứ diệu đế dùng vào chỗ nào? Mình không khổ, chúng sinh không khổ thì lấy gì làm cơ bản để tu Lục độ vạn hạnh? Không khổ, không lo thì cần gì phải tu hành? Không tu Tứ Diệu Đế và Lục Độ Vạn hạnh thì làm sao thành Phật được?
Nhưng nếu nhìn sâu (thâm ý của Phật) thì tịnh và thiền đều có chung một mục đích là cột tâm vào một chỗ. Tâm của con người sinh diệt từng sát na (60 sát na là một giây) với biết bao ý tưởng thay đổi không ngừng như tâm viên ý mã vì thế mà năng lực trở thành yếu ớt kém cỏi. Nay dùng phương tiện như tham thiền hay niệm Phật để cột tâm lại một chỗ, không còn tán loạn thì tâm sẽ được tỉnh tức là có định và sáng suốt. Nếu chúng sinh niệm danh hiệu Phật A Di Đà để dẹp trừ vọng tưởng, chấp trước thì mỗi câu niệm sẽ quét sạch vọng tưởng làm tâm thanh tịnh. Ví như ngọn đèn vốn sáng, nhưng vì gió lay động làm ánh sáng bị lu mờ. Nếu bây giờ chụp cái bóng che gió vào thì ngọn đèn sẽ bừng sáng. Do đó nếu chúng sinh suốt ngày trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, biết chú tâm vào hồng danh này khi làm việc, lúc nghỉ ngơi cho đến lúc nhất tâm bất loạn thì cái ảo ảnh nhị nguyên của vô minh, cái tâm phân biệt, có chúng sinh có Phật sẽ chấm dứt và họ sẽ chứng ngộ được chân lý nhiệm mầu ngay. Nên nhớ công phu nhất tâm bất loạn của tịnh độ tức là thánh quả A la hán của thiền tông.
Vì thế cho dù con người có gọi nó là tha lực tiếp dẫn của Đức A Di Đà, gọi là thiền, gọi là mật, gọi là giáo thì có khác biệt gì đâu bởi vì chứng ngộ chân lý thì không thể nói hay diễn tả bằng văn tự ngôn ngữ được. Cái khả năng giải thoát mà con người cho rằng vốn ở bên ngoài tức là tha lực thật ra vẫn ở bên trong tức là tự lực thì lúc nào vẫn sẵn có ở trong ta. Đó chính là cái tự tánh thanh tịnh bản nhiên, là Phật tánh vĩnh hằng trong tất cả mọi chúng sinh. Vì thế nếu người tu trì công niệm Phật đến khi dứt sạch vọng tưởng và ngộ nhập chơn tâm rồi thì Phật A Di Đà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở nội tâm của mình hiện ra chớ không phải ở đâu xa. Bởi vậy kinh Phật mới có câu : ”Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ” là vậy.
Niệm Phật đến chỗ nhất tâm bất loạn thì mới được vãng sanh có nghĩa là niệm Phật đến chỗ vô niệm nghĩa là niệm mà không còn biết mình đang niệm tức là tâm ấy chính là tâm Phật rồi. Đó là : ”Lục tự Di Đà vô biệt niệm” thì mới có “Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh”. Hoa khai kiến Phật tức là Minh Tâm Kiến Tánh và Ngộ Vô Sanh nghĩa là không còn sinh không còn diệt tức là chứng được Vô sanh pháp nhẫn vậy. Như thế thì tu thiền hay niệm Phật chỉ là những phương tiện, là những cách nói, nhưng cứu cánh vẫn là một. Cho dù con người có gọi nó là minh tâm kiến tánh, nhất tâm bất loạn hay gọi là gì đi chăng nữa thì trong đạo Phật chỉ có một hương vị duy nhất là vị giải thoát giác ngộ. Vì thế trong Tịnh Độ thi có câu:
Ba phước thề tu, sáu niệm căn
Giữ gìn tam nghiệp sạch trong ngần
Một câu thánh hiệu không rời chán
Nguyện thấy Di Đà chứng pháp thân.
Do đó nếu chúng sinh có thể lìa Sự Tướng mà nhập vào Bản Thể Chân Như thì Niết bàn, Bồ đề tự hiển lộ. Đó là : ”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh” nghĩa là khi chúng sinh đã hoàn toàn có tâm thanh tịnh thì thế giới họ đang sống chính là cõi tịnh độ rồi.
Có người thắc mắc rằng Tịnh độ đến Nhất tâm bất loạn, còn Thiền tông đến chỗ nào?
Không có đến chỗ nào hết. Cái mà con người gọi là Minh tâm kiến tánh nghĩa là tâm mình cùng khắp không gian, vô bờ vô bến, chỗ nào cũng là Thể của tâm mình cả. Đó là chơn tâm, Phật tánh cùng khắp vậy. Tịnh độ tông mà người Trung Hoa còn gọi là Liên tông là một trường phái được lưu hành rộng rãi tại Trung Hoa. Năm 402, Ngài Huệ Viễn (334-416) sống cùng thời với Pháp sư Cưu Ma La Thập, thành lập Bạch Liên Xã, trong đó ông quy tụ một nhóm 123 người gồm Tăng sĩ và Cư sĩ tụ tập trước tượng A Di Đà và nguyện vãng sinh về cõi Tây phương cực lạc. Dựa theo người Trung Hoa, ông được xem là sơ tổ của Tịnh độ, nhưng thật ra khi nói về pháp môn niệm Phật thì Đại Thế Chí Bồ Tát mới là sơ tổ của pháp môn này. Sau đó có sư Đàm Loan (476-542) là người phát triển tích cực và đem môn Tịnh độ đến với mọi người. Sư cho rằng vào thời mạt pháp thì tự lực không còn đủ sức để giải thoát. Sư không chấp nhận con đường gian khổ của những tông phái khác và chỉ chấp nhận giải pháp “dễ dãi” là dựa vào tha lực của Phật A Di Đà. Sư nghĩ rằng chúng sinh chỉ cần nhất tâm quán niệm danh hiệu Phật A Di Đà là đủ để sanh về cõi cực lạc của Ngài. Đặc tính của Tịnh độ là lòng tin nhiệt thành nơi Phật A Di Đà và sức mạnh cứu độ của Ngài.
Đức Phật Thích Ca đã khẳng định rằng Ngài chỉ là một đấng đạo sư, chứ không phải là đấng cứu thế, đấng thần linh vì thế đạo Phật là con đường giúp chúng sinh tự mình chứng ngộ chân lý, tự mình có được giải thoát giác ngộ chứ Phật không cứu rỗi, độ cho bất cứ ai. Bồ-đề, Niết bàn là do chúng sinh tự hóa giải hết vô minh phiền não mà có chứ không phải do Phật, Bồ-tát ban tặng. Bớt một phần vô minh thì có một phần Bồ-đề, hóa giải một phần phiền não thì có một phần an lạc Niết bàn thế thôi. Đức Phật hy sinh cả cuộc đời vương giả, không ngại dầm mưa giải nắng, cực khổ gian lao để đi tìm chân lý. Đến khi thành đạo Ngài đã đem ánh đạo vàng gieo khắp các nơi, đem nước từ bi rưới xuống cứu độ chúng sinh để “lìa khổ được vui” không phân biệt là cung vua phủ chúa hay mái tranh nghèo của người nông phu vì thế không có nơi nào ở Ấn Độ mà không có dấu chân Phật. Nếu đây không phải là “Tha lực Phật” đã gia bị cho chúng sinh thì là gì? Nhưng trong Phật giáo không hề có việc ân sủng cứu rỗi vì nó đi ngược lại với quy luật nhân quả phát triển khách quan của tất cả vạn hữu trong vũ trụ.
Trong Kinh A Hàm, có câu chuyện nàng Kisa Gotami như sau:
Nàng Kisa Gotami có người con trai chẳng may bị rắn cắn chết. Vì quá thương yêu đứa con yêu dấu của mình nên nàng Kisa không thể chấp nhận cái chết. Nàng mang thi hài của con đến hết nhà này tới nhà kia để tìm thuốc cứu chữa, nhưng không ai có thể giúp nàng được. Cuối cùng nàng đến hầu Đức Phật. Đức Phật dạy rằng :
- Nếu cô có thể đem cho ta một nắm tro (có sách viết là hạt cải), ta sẽ giúp cô. Tuy nhiên, nắm tro ấy phải xuất phát từ ngôi nhà trong đó không có người nào chết cả.
Kisa đi đến mọi nhà trong thành phố. Khắp nơi mọi người đều thương xót cho hoàn cảnh đau khổ của nàng nên ai cũng tặng nàng nắm tro. Nhưng khi hỏi lại thì bất cứ gia đình nào cũng có người chết. Đó là có khi anh em, cha mẹ, vợ chồng hay con cái như nàng. Quá thất vọng, nàng trở về gặp Đức Phật với tay không. Đức Phật nhìn người đàn bà đau khổ và hỏi:
- Ngươi đã tìm được nắm tro ấy không?
- Ôi! Con ôm đứa con đã lạnh vào lòng và đi gỏ cửa từng nhà một để xin thứ tro ấy. Tro thì không thiếu gì, nhưng không có nhà nào không có người hoặc mới chết, hoặc chết đã lâu. Con mệt nhọc mà vẫn không tìm ra nay nhờ Ngài chỉ dùm nhà nào có thứ tro mà Ngài đã dạy để cứu con của con.
Đức Phật đặt một tay trên vai Kisa như để trút cả một niềm thương lên đó và nói bằng một giọng xót xa :
- Kisa! Không có thứ tro đó đâu. Vì chết là một luật chung của sinh vật trong vũ trụ này. Hôm qua ta bảo ngươi đi tìm thứ tro ấy là cốt để cho ngươi nhận thấy rằng “Đã là con người thì phải chịu cảnh sinh ly tử biệt”. Không ai có thể vượt thoát ra khỏi luật vô thường cay nghiệt này. Hôm qua ngươi tưởng chỉ có một mình ngươi đau đớn. Bây giờ ngươi đã hiểu rằng toàn thể nhân loại đều chịu chung như thế cả. Cái đau đớn của ngươi chỉ là một trong cái đau đớn của toàn thể nhân loại. Đây là một giọt nước mắt trong biển nước mắt mà thôi. Ngươi đừng nên than khóc thái quá vì không thể nào thay đổi cái định luật khắc nghiệt này. Nếu ta có thể cứu được con ngươi thì dầu cần đến máu xương ta thì ta cũng không từ.
Nàng Kisa cảm thấy được an ủi nên về sau nàng đến gặp Đức Phật, trở thành đệ tử của Ngài và sau đó chứng thánh quả A la hán.
Dựa vào câu chuyện trên, chính Đức Phật cũng không thể thay đổi sinh mệnh của con người được bởi vì chân lý của đạo Phật là nhân nào thì quả nấy và chỉ có ta mới có thể thay đổi cuộc đời và định mệnh của ta mà thôi. Vì thế không có việc độ trì, cứu rỗi trong đạo Phật vì Đức Phật chỉ là bậc thầy vĩ đại chứ không phải là đấng thần linh.
Trưởng giả Cấp Cô Độc (Anàthapindika) là vị thí chủ lớn nhất ủng hộ Đức Phật và Tăng chúng. Ông cùng Thái tử Kỳ-Đà (Jeta) xây tịnh xá Kỳ Viên nơi mà Đức Phật đã thuyết giảng trong suốt 19 mùa an cư kiết hạ. Khi cư sĩ Cấp Cô Độc đau nặng sắp chết, Đức Phật hay tin liền cho tôn giả Xá Lợi Phất và A Nan đến thăm. Sau khi thăm hỏi bệnh tình, tôn giả Xá Lợi Phất khuyên ông Cấp Cô Độc không nên để cho mắt sanh thức rồi nhiễm theo sắc trần, không nên để tai sanh thức rồi nhiễm theo thanh trần…Nói chung tuy sáu căn tiếp xúc với sáu trần nhưng đừng khởi thức phân biệt rồi chạy theo sáu trần. Sau đó Ngài nhắc ông Cấp Cô Độc chớ để tâm đắm nhiễm sắc thân tứ đại (đất, nước, gió, lửa) mà sanh tham dục. Chớ để tâm đắm nhiễm cái thân ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) mà sanh tham dục. Trưởng giả Cấp Cô Độc nghe xong bài pháp thoại liền rơi nước mắt mà thưa rằng:
- Từ trước đến giờ con chưa từng nghe bài pháp như thế, bây giờ con mới được nghe.
Tôn giả A Nan cũng nhắc nhở khuyến pháp cho ông Cấp Cô Độc. Nhắc nhở, giảng giải xong, hai tôn giả từ giả ra về. Sau đó không bao lâu, cư sĩ Cấp Cô Độc mệnh chung sinh lên cõi trời Đầu Suất.
Như vậy đối với các Phật tử sắp chết, Đức Phật và các đại đệ tử của Ngài chỉ đến thăm, giảng giải đạo lý nhắc cho người bệnh nhớ và tin sâu vào Tam Bảo mà an lòng ra đi chớ không có tụng kinh trợ niệm. Nếu những Phật tử khi mạnh khỏe thường tụng Bát Nhã tâm kinh thì nên nhắc nhở với họ còn nhớ câu : ”Quán tự tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngủ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Nếu họ trả lời “Nhớ” thì hỏi tiếp : ”Chiếu kiến ngũ uẩn giai không là sao?”. Nếu họ giải thích đúng, thì hỏi tiếp : ”Thế thì quý vị đã thấy ngũ uẩn giai không chưa?”. Nếu họ đã thấy thì qua hết khổ nạn mà ra đi thảnh thơi. Nếu họ chưa thấy thì nhắc lại cho họ tỉnh. Hoặc có thể nhắc nhở một câu trong kinh Kim Cang : ”Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, Nhược kiến chư tướng, Phi tướng tức kiến Như Lai” để đánh thức họ họ đừng luyến tiếc xác thân, tiền của, ngay cả vợ chồng con cái thì mới ra đi nhẹ nhàng được. Như vậy là độ cho họ trong giờ phút lâm chung, chớ không phải lập bàn thờ Phật, mình thì tụng kinh gõ mõ còn họ thì cứ mê cứ mệt, không sáng suốt, hai bên không dính dáng gì nhau.
Ngày xưa có một Tỳ kheo trẻ mới xuất gia học đạo, nhưng lâm bệnh nặng nên Đức Phật tới thăm hỏi:
- Ông có hối tiếc điều gì không?
- Bạch Thế Tôn! Con có hối tiếc.
- Ông có phạm giới không?
- Bạch Thế Tôn! Con không phạm giới.
- Không phạm giới, sao ông hối tiếc?
- Bạch Thế Tôn! Con mới xuất gia, đối với pháp thượng nhân con chưa có sở đắc nên hối tiếc lúc mạng chung không biết sanh về nơi đâu?
Đức Phật hỏi tiếp:
- Do có nhãn căn nên mới có nhãn thức phải không?
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.
- Ý ông nghĩ sao? Có nhãn thức nên có nhãn xúc. Do nhãn xúc làm nhân duyên sanh cảm thọ khổ vui phải không?
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.
- Từ đó nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý cũng vậy.
- Này Tỳ kheo! Nếu không có nhãn căn thì không có nhãn thức phải không?
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.
- Này Tỳ kheo! Nếu không có nhãn thức thì không có nhãn xúc. Nếu không có nhãn xúc thì không có nhân duyên sanh cảm thọ khổ vui phải không?
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.
- Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng nên quán như vậy.
- Vậy Tỳ kheo phải khéo tư duy pháp như thế. Lúc mệnh chung an ổn, đời sau cũng tốt lành.
Nhắc nhở giảng dạy xong, Đức Phật ra về, chốc lát sau Tỳ kheo trẻ mệnh chung. Lúc chết các căn của Tỳ kheo ấy rất thanh tịnh và dung mạo màu da tươi sáng, chứng được Niết bàn.
Đức Phật chỉ nhắc nhở cho vị Tỳ kheo ấy nếu muốn được giải thoát thì đừng chấp thân, đừng chấp tâm và đừng chấp cảnh. Do đó nếu không còn chấp thì chặt đứt tham-sân-si và dĩ nhiên tâm được thanh tịnh mà chứng được Niết bàn. Đức Phật chỉ nhắc nhở như thế là đủ chớ Phật và đệ tử của Ngài không hề có “tụng kinh niệm Phật cầu siêu”. Tại sao lại không tụng niệm? Vì người sắp chết tâm lại duyên theo tiếng mõ tiếng chuông, âm vang trầm bổng của lời tụng. Mà còn duyên là còn dính mắc, không tự tại, khó giải thoát. Nhưng nếu nhắc nhở cho họ thấu hiểu rằng “ngũ uẩn giai không” nghĩa là thân này không thật, thế gian nầy không thật, cuộc đời cũng như giấc mộng, nhanh như điện chớp, như bóng mây, mới thấy đó rồi mất đó. Ngay cả thân bằng quyến thuộc cũng không thật bởi vì duyên kết thì còn anh còn em, còn vợ còn chồng, còn con còn cháu đến khi duyên tan thì mỗi người đi mỗi ngã. Hiểu được như thế thì họ dễ dàng buông xả, không còn lo phiền tức là “hết khổ ách”. Tham-sân-si hết thì tâm trí sáng suốt, có an vui tự tại và Niết bàn hiển lộ. Dĩ nhiên là họ sẽ được siêu thoát.
Như thế, đạo Phật không tin vào sự cứu rỗi mà tin sâu vào nhân quả, tin vào lời tuyên bố của Đức Phật khi mới thành đạo là: "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành” và dĩ nhiên tin vào câu nói sau cùng trước khi Ngài nhập diệt: "Mọi người hãy tự thắp đuốc lên mà đi”. Đây chính là ngọn đuốc trí tuệ sáng chói mà chính Ngài đã giơ cao để soi đường và nhắn nhủ với chúng sinh phải “tự học, tự tu, tự giác mà thành Phật”.
Còn theo kinh điển Pàli, nguồn giáo lý căn bản của Nam tông thì cõi Tịnh độ hay vãng sinh được hiểu như thế nào?
Dựa theo kinh điển Pàli, danh từ Suddhàvàsa (tiếng ghép của hai chữ Suddha nghĩa là thanh tịnh và Àvàsa nghĩa là chỗ ở) có thể được hiểu là Tịnh độ, chỉ chung cho các cõi nhân thiên. Còn danh từ Sukhavati của Phạn ngữ có nghĩa là chốn An lạc, Lạc cảnh. Do đó Tịnh độ của Trung Hoa là cõi cực lạc đúng hơn là cõi Tịnh độ. Theo các chú sớ A Tỳ Đàm, có tất cả 5 cõi Tịnh độ nằm trong 16 cõi Phạm thiên Hữu sắc. Đó là cõi Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện kiến và Sắc cứu cánh. Vì là cõi hữu sắc nên ở 5 cõi Tịnh độ này vẫn có những lâu đài, hoa viên rất trang nghiêm, nhưng không phải để hưởng thụ mà chỉ là nơi thanh tịnh tu hành.
Đối với Phật giáo Nam tông, Phật giáo nguyên thủy, có tất cả bốn hàng Thánh trí trong Thanh văn thừa. Đó là:
1) Sơ quả Tu đà hoàn (Sotàpatti): Nếu chúng sinh loại bỏ được 3 thứ phiền não : thân kiến (chấp cái thân tứ đại là trường tồn bất biến vì không thông hiểu luật vô thường, vô ngã, sinh sinh diệt diệt nên chấp trong ta có Cái Ta riêng biệt, chắc chắn và không biến đổi), hoài nghi (không tin sâu vào Phật pháp) và giới cấm thủ (chấp trước các tín điều mù quáng của những tà giáo) thì họ đắc được sơ quả Tu đà hoàn. Nói chung, sơ quả chỉ là giai đoạn ngắn trước khi chúng sinh hoàn tất các tầng thánh trí cao hơn. Quả vị này còn được gọi là Thất lai nghĩa là người chứng đắc sơ quả không thể tái sinh quá 7 lần hay 7 kiếp.
2) Nhị quả Tư đà hàm: Sau khi loại bỏ ba loại phiền não ở trên, bây giờ chúng sinh tiếp tục tham thiền, niệm Phật làm giảm nhẹ ái dục và sân hận thì chứng đắc Nhị quả hay còn được gọi là Nhất lai (Sakadàgàmi) bởi vì những vị này chỉ có thể tái sinh vào cõi Dục giới một lần chót mà thôi.
3) Tam quả A na hàm: nghĩa là Bất lai tức là không còn tái sinh trở lại một trong 11 cõi Dục giới nữa. Theo A Tỳ Đàm tạng Pàli, nếu chúng sinh hoàn toàn chấm dứt ái dục (niềm tham luyến trong ngũ trần) và sân hận thì sẽ chứng đắc tam quả A na hàm. Các vị A nan hàm có hai chọn lựa :
- Thứ nhất: Nếu họ có khả năng đi sâu vào thiền định như chứng đắc Ngũ thiền thì bây giờ tùy theo công phu mạnh yếu của Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ mà họ sẽ được sinh vào một trong 5 cõi Tịnh độ. Tín mạnh thì sinh về cõi Vô phiền (Avihà) có thọ mạng 1.000 đại kiếp, Tấn hùng hậu thì sinh về cõi Vô nhiệt (Àtappà) có thọ mạng 2.000 đại kiếp, Niệm cao thì sinh về cõi Thiện hiện (Sudassà) có thọ mạng 4.000 đại kiếp, Định thâm hậu thì sinh về cõi Thiện kiến (Sudassi) có thọ mạng 8.000 đại kiếp và Tuệ sáng chói thì sinh về cõi Sắc cứu cánh (Akanittha) có thọ mạng 16.000 đại kiếp. Đây là chốn sau cùng để một vị Bất lai chứng quả A la hán và nhập diệt.
- Thứ hai: Trong trường hợp vị Thánh A na hàm chưa chứng qua một tầng thiền định nào nghĩa là vị này chỉ có tu trí tuệ Thiền Quán (Vipassanà) mà chưa từng tu tập Thiền Chỉ (Samatha) thì đến lúc mạng chung, vị này do khả năng ly dục vô sân tuyệt đối nên tối thiểu cũng đạt được Sơ thiền, cũng đủ để sinh về cõi Phạm thiên thấp nhất là Phạm thiên Sơ thiền.
4) Thánh quả A la hán: là người đã chấm dứt toàn bộ phiền não.
Trong tinh thần A Tỳ Đàm Pàli thì danh từ vãng sinh của Bắc tông phải được hiểu là siêu sinh nghĩa là không còn tái sinh, một điều chỉ được thực hiện bởi một vị A la hán. Như vậy, trong trường hợp những vị chứng đắc từ tam quả A na hàm trở xuống sẽ sinh về một trong 5 cõi Tịnh độ mới có thể gọi là vãng sinh. Như thế vãng sinh Tịnh độ dựa theo tinh thần Phật giáo nguyên thủy phải được hiểu là một phần đường trên hành trình giải thoát của một vị Thanh văn. Do đó pháp môn Tịnh độ hay con đường vãng sinh cũng đồng nghĩa với hành trình Tam vô lậu học Giới Định Tuệ và 37 phẩm trợ đạo của Tứ diệu đế.
Vì vậy pháp môn Tịnh độ vẫn là cứu cánh cho tất cả mọi người, nhưng dựa theo tinh thần Phật giáo nguyên thủy thì cầu vãng sinh không có nghĩa là chờ đợi sự tiếp dẫn của bất cứ ai mà phải là sự lên đường bằng chính đôi chân của mình.
Thứ ba đối với mật tông hay Kim Cang thừa: Tông phái này mang đầy mầu sắc lễ nghi, hình thức phức tạp và những thực hành có tính cách bí truyền ngược lại với tính chất công truyền của giáo lý Nguyên thủy. Trên phương diện giáo lý, mật tông dựa theo tư tưởng Trung Quán và Duy Thức, nhưng trên thực tế tông phái này phát triển vô số thần linh, lễ nghi, bùa chú, ấn quyết và trộn lẫn với đạo Bon Pa (đạo bùa chú ở Tây Tạng có trước khi đạo Phật du nhập vào Tây Tạng). Mật tông Tây Tạng quan niệm rằng : ”luân hồi là Niết bàn” cho nên họ dùng tất cả những kinh nghiệm sống của con người, tất cả những trạng thái tâm thần, dù là xấu xa hèn kém để chuyển hóa chúng nhằm vượt khỏi thế giới phân biệt đối đãi nhị nguyên mà chứng đạt được chân lý. Vì mật ngữ phải truyền từ vị thầy đến đệ tử do đó trên con đường tu học này rất khó khăn và phức tạp khiến sự hướng dẫn của một vị thầy là một điều cốt yếu cho nên người đệ tử phải có một niềm tin vững chắc vào vị thầy cũng như lòng tin ở khả năng giác ngộ của chính mình.
Như thế, trong đạo Phật đức tin chỉ là phương tiện, trí tuệ cũng chỉ là phương tiện, nhưng là phương tiện cốt yếu trong khi đức tin là một phương tiện thứ yếu, tạm thời. Vì vậy cho dù chúng sinh có tu theo tiểu thừa, đại thừa, tu theo thiền, tịnh hay mật, hiển hay giáo thì mục đích tối hậu của đạo Phật là giải thoát giác ngộ và niềm tin tối thượng vẫn là tin tưởng ở chính mình, ở khả năng tự giác của mình và tin vào tự tánh thanh tịnh bản nhiên tức là Phật tánh, là chơn tâm lúc nào cũng sẵn có và hằng sáng ở trong ta.
*
* *
ĐẠO PHẬT DƯỚI ÁNH MẮT CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ?
1) Người đệ tử Phật không bị ràng buộc bởi bất cứ tín điều, tư tưởng, chủ nghĩa hay sự cấm kỵ nào bởi vì Phật giáo phủ nhận đầu óc cuồng tín và giáo điều cực đoan. Nếu không tin Phật thì người đó không bị trừng phạt hay bị đày xuống hỏa ngục, nhưng nếu người đó làm điều xấu hoặc điều ác thì chính họ đang sống trong Hỏa ngục rồi. Lời Phật dạy giống như viên thuốc, nếu uống thì hết bịnh còn không uống thì tiếp tục sống trong vô minh điên đảo khổ đau, chịu sinh tử luân hồi thế thôi.
2) Sự sống chết của con người là do nhân quả mà ra chớ không do quỷ thần hay Nam Tào, Bắc Đẩu xóa sổ. Tất cả những hạnh phúc hay khổ đau của con người là do chính tay họ tự tạo ra chớ Quỷ Thần không can dự vào được. Thử hỏi bao nhiêu thiên tai, tai nạn khủng khiếp và bao cuộc chiến tranh đẫm máu do ai gây ra? Phải chăng đây là do lòng tham vô đáy của con người đã tác tạo ra những cộng nghiệp, biệt nghiệp bất thiện nên phải gánh chịu quả báo đau thương tang tóc hay do một đấng thần linh nào đó vì phẫn nộ với loài người gây ra? Trong thế gian vũ trụ này không có cái gì là cố định cả. Nếu không có sự chuyển động thì thế giới, vũ trụ, con nguời cũng không còn, không tồn tại. Do sự chuyển động của địa cầu làm rung chuyển những khối lỏng nham thạch bên trong mà tạo thành động đất, núi lửa. Vậy theo tinh thần Phật giáo, không có một vị thần linh nào có thể nhẫn tâm trừng phạt, hủy diệt loài người và gây đau thương chết chóc khắp mọi nơi mà đây chỉ là kết quả mà chính con người đã tạo ra cho chính mình.
Thêm nữa, khi nói về Thượng đế, Phạm thiên, hay thần linh thì Đức Phật có dạy rằng:
“Như vậy, chính do ý muốn và sự tạo tác của đấng Tối Cao mà con người trở thành sát nhân, trộm cắp, tà dâm, phỉ báng, thô lỗ, nhảm nhí, thèm thuồng, khao khát, hiểm độc, tinh quái và hiểu biết sai lầm. Do đó đối với người chủ trương thần linh là nguyên nhân chính yếu của tất cả những điều ấy”.
Trong Túc Sanh Truyện (Maha Bodhi Jataka) cũng nói rằng : ”Nếu có một đấng thần linh toàn quyền ban phước hay giáng họa cho tạo vật đã được chính Ngài tạo ra và cho chúng nó những hành động tốt hay xấu thì vị thần linh ấy quả thật đầy tội lỗi. Bởi vì con người chỉ thừa hành ý muốn của đấng thần linh đó”.
Do đó nếu nói Thượng đế là đấng toàn năng toàn thiện thì tại sao Ngài lại sáng tạo cái thế giới con người đầy dẫy tội lỗi đau thương? Tại sao Ngài tạo ra biết bao nhiêu cảnh tai trời ách nước, tàn phá, giết hại chúng sinh? Như thế thì lòng bác ái của Ngài ở đâu? Vậy sự cầu nguyện có làm bớt thiên tai, dịch họa, chiến tranh hay khổ đau của con người được không? Vì thế Phật giáo phủ nhận sự hiện hữu thần linh trong cuộc sống của con người. Theo tinh thần Phật giáo thì chính con người phải tự mình giải quyết những vấn đề như chiến tranh hay hòa bình, hạnh phúc hay khổ đau của chính mình. Chiến tranh hay hòa bình là do con người quyết định chớ không dính dấp gì tới Phật trời cả.
Nếu con người biết sống khoan dung độ lượng để biết thương yêu nhau thì họ biến chiến tranh thành hòa bình, ngược lại nếu các nhà lãnh đạo chạy theo những tham vọng đen tối thì từ hòa bình thành chiến tranh giết chóc thế thôi. Thêm nữa, do sự chuyển động của trái đất, của núi lửa, của những cơn gió lốc…theo định luật vô thường: thành, trụ, hoại, không đã tác hại con người. Nói chung thì đó cũng là do lòng tham của con người phá hũy môi trường sống của chính mình qua chiến tranh, qua những cuộc thí nghiệm nguyên tử, qua tàn phá thiên nhiên, đốt rừng tiêu hủy cây cối… tạo nên những ảnh hưởng dây chuyền nguy hiểm cho nhân sinh. Con người cũng vì muốn thỏa mãn lòng tham mà đi ngược lại với thiên nhiên nên hàng ngày lấy lên từ lòng đất, từ lòng biển hàng triệu thứ từ kim cương đến vàng, bạc, nhôm, sắt, khí đốt, dầu hỏa rồi lại thải ra hàng triệu tấn chất độc tác hại gây ra lầm than qua thiên tai, động đất, sóng thần, bảo lụt, hạn hán…Vì thế con người không thể tin rằng có một Thần linh nào đó có thể nhẫn tâm trừng phạt, hủy diệt loài người và gây đau thương chết chóc tang tóc khắp mọi nơi. Khi liễu ngộ như thế con người không phải sợ hãi thần linh, tôn thờ thần linh, van vái và cầu xin ở thần linh nữa.
3) Lời nói đầu tiên của Đức Phật khi Ngài vừa thành đạo dưới cội Bồ-đề là “trong mọi chúng sinh ai ai cũng đều có Phật tánh như nhau” nghĩa là bất cứ chúng sinh nào cũng có khả năng tu thành Phật cũng như Phật. Đây là tinh thần bình đẳng mà chỉ Phật giáo mới có. Vì thế đối với người Phật tử một khi đã thấm nhuần tinh thần bình đẳng của nhà Phật thì dưới nhãn thức của họ sẽ không có giai cấp, không có nạn kỳ thị chủng tộc, không có Phật tử giàu sang và Phật tử nghèo hèn, không có Phật tử thông minh hay Phật tử đần độn. Do đó khi người Phật tử lễ Phật là lễ lạy, cung kính cái Phật tánh có sẵn trong con người mình và cung kính tất cả những phẩm hạnh cao quý vốn có sẵn trong tự tánh của chính mình nếu biết phát huy chớ không phải vái lạy, van xin hay cầu nguyện để thỏa mãn những đòi hỏi phát xuất từ dục vọng của mình.
4) Khi con người biết xã bỏ những thú vui giả tạm của thế gian để phát huy triệt để tiềm năng của lòng từ bi và trí tuệ thì họ sẽ có an lạc, thanh tịnh của Niết bàn mà không cần cầu xin, van vái gì hết bởi vì Niết bàn Bồ-đề vốn đã có sẵn trong họ chớ không do Phật trời ban tặng. Phật giáo chủ trương phiền não tức Bồ-đề và sinh tử tức Niết bàn. Tại sao? Trong cuộc sống, con người vì chạy theo miếng cơm manh áo, sắc tài danh lợi mà tự mình tạo ra biết bao phiền não làm che lấp tự tánh Bồ-đề nên sống trong vô minh đen tối. Bây giờ nếu biết thức tỉnh, hồi quang phản chiếu để hóa giải hết những phiền não kia thì đám mây đen vô minh tan biến và ánh sáng huyền diệu Bồ-đề từ từ hiển hiện trong tâm. Còn sinh tử là khổ đau. Trên thế gian này tất cả mọi vật thể đều là tự tánh thanh tịnh bản nhiên, không ô nhiễm nên gọi là pháp tánh cũng như tất cả chúng sinh đều có tự tánh Bồ-đề mà nhà Phật gọi là Phật tánh.
Thí dụ như cây cỏ, núi cao rừng thẳm đâu có lôi cuốn, quyến rũ ai đâu, nhưng con người thấy cảnh liền mê, tham hoa hiếu sắc. Do đó tham mê sắc dục là tại cái nhìn của người còn vô minh chớ thiên nhiên lúc nào cũng thanh tịnh hồn nhiên, không ô nhiễm. Con người cũng thế, nếu chúng sinh nhìn thế gian bằng con mắt tham đắm dục tình thì cái gì cũng mê cũng thích, nhưng cũng con người đó bây giờ hiểu đạo mà nhận biết rằng vạn pháp giai không nên không còn chấp thủ, đắm say. Hiểu đạo thì có cũng được mà không cũng chẳng sao, tất cả chỉ là phương tiện để sống chớ không xem nó là cứu cánh của cuộc đời. Sống đúng như vậy thì sẽ có tâm thanh tịnh tức là Phật tánh hiển bày.
Vậy Phật tánh lúc nào cũng sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh cũng như ánh sánh mặt trời lúc nào cũng chiếu sáng. Nhưng nếu con người chạy theo phiền não vô minh thì Phật tánh biến mất cũng như đám mây đen hắc ám che lấp ánh sáng mặt trời. Vậy thế gian làm gì có ô nhiễm, khổ đau hay nói rõ ràng hơn là sáu căn, sáu trần, sáu thức và bảy đại cũng không phải là nguyên nhân của tội lỗi xấu xa. Khổ đau là do con người tự ràng buộc, tự trói lấy mình chứ Phật trời có trói buộc ai đâu. Khi con người biết hồi đầu thị ngạn, tư duy quán chiếu để cởi bỏ, tháo gở cho hết những trói buộc do chính mình tạo tác thì khổ đau từ từ tan biến, ô nhiễm bị tiêu trừ và dĩ nhiên niềm an lạc, thanh tịnh, tự tại của Niết bàn hiện ra mà không cần cầu nguyện chi hết.
5) Trong lịch sử nhân loại từ cổ đến kim, bao nhiêu cuộc chiến tranh tàn khốc, bao nhiêu cảnh anh em, cha mẹ, vợ chồng, con cái, xóm làng chém giết, sát hại lẫn nhau cũng chỉ vì tánh tham, tật đố. Giáo lý Đức Phật sẽ là những liều thuốc nhiệm mầu xoa dịu nổi đau thương làm con người gần nhau hơn vì còn tham-sân-si là con người còn đau khổ. Vì muốn thỏa mãn lòng tham nên con người không bao giờ thấy đủ, không hạnh phúc với những gì mình có. Người giàu thì muốn giàu hơn cho nên đầu óc không còn sáng suốt nên dễ dàng làm chuyện phi pháp, trái với đạo đức mà phải thọ báo quả khổ về sau. Quốc gia lớn nuốt sống những nước nhỏ, người mạnh ỷ thế hiếp kẻ yếu thế cô…Thí dụ ngày xưa bạo chúa Tần Thủy Hoàng cậy sức mạnh thôn tính sáu nước chư hầu mà cuộc sống ông ta đâu có hạnh phúc vì lúc nào cũng sợ có kẻ báo thù cho nên ông ăn không ngon và ngủ chỉ thấy toàn ác mộng.
Vì muốn sống lâu để thỏa mãn những dục tính điên cuồng nên ông sai người tâm phúc đi tìm thuốc trường sinh bất tử nhưng cuối cùng ông cũng chết vì uống nhằm độc dược có chất Thủy Ngân. Do đó Phật dạy biết “tri túc thiểu dục” là có hạnh phúc. Thật vậy, người giàu chưa chắc cuộc sống đã là sung sướng bởi vì có càng to thì lo càng lớn. Công danh phú quý cũng như đeo ách trên vai, ách càng to thì vai càng nặng chớ có sung sướng gì. Còn người nghèo mà biết gói ghém, vun bồi đạo đức, trên thuận dưới hòa thì chắc gì đã khổ đau bởi vì hạnh phúc hay khổ đau là ở chỗ biết sống vì thế cổ nhân cũng có câu : ”Trọc phú đa ưu, thanh bần an lạc” là vậy. Cho nên người không hiểu đạo, lúc lâm vào cảnh nghèo túng thì đâm ra buồn khổ tức là:
“Lòng quanh quéo càng thêm quanh quéo,
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu”
Cho nên:
“Lòng buồn sanh bệnh, bệnh sanh lòng buồn”.
Do đó vui vẻ trong mọi hoàn cảnh là có hạnh phúc rồi. Vì thế mà Đức Phật dạy rằng:
“Tham dục chính là nguồn gốc của khổ đau. Mọi vật rồi sẽ thay đổi, vì thế không nên luyến ái hay vướng víu vào một thứ gì. Nên nhiếp tâm thanh tịnh tìm chân lý và đạt đến hạnh phúc vĩnh hằng.”.
Biết tri túc thiểu dục là biết sống hạnh phúc với những điều kiện vật chất khả dĩ giúp cho con người có đầy đủ sức khỏe để tu tâm dưỡng tánh và đây là phương cách hữu hiệu nhất để cắt đứt lưới tham dục, an ổn thân tâm và có nhiều thì giờ giúp đở tha nhân. Từ đó chúng sinh mới có thể nhiếp tâm thanh tịnh nghĩa là kiểm soát, đừng để tâm chạy theo khách trần phiền não mà chứng được chân lý và dĩ nhiên Bồ-đề, Niết bàn hiển hiện tức là có được hạnh phúc vĩnh hằng vậy.
Những gì Đức Phật dạy đều phát xuất từ đời sống kinh nghiệm và chứng đắc của bản thân vì thế, Ngài dạy chúng sinh những ý chí sắt đá, trí tuệ cao siêu, đức vị tha phục vụ, sự thoát ly và sống đời gương mẫu làm lợi lạc cho mình, cho người. Con người vĩ đại đó, tấm lòng đại từ đại bi đại trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của Đức Phật đã làm cho thế giới kính phục Ngài như một đạo sư siêu việt nhất trong lịch sử nhân loại. Đạo Phật là con đường giúp chúng sinh tự mình thể nghiệm chân lý mà Phật chỉ là kẻ dẫn đường, người hướng đạo. Do đó toàn bộ giáo lý Đức Phật chỉ là phương tiện mà thực chứng chân lý mới là cứu cánh cho nên lời nói của Phật có mục đích để cho con người phát nghi, chớ không để cho người ta chấp thật. Tại sao? Vì có nghi con người mới nỗ lực tìm câu trả lời thì đây chính là những công án rất nhiệm mầu giúp chúng sinh thể nghiệm chân lý.
Đó cũng là con đường mà Đức Phật ngày xưa đã đi. Vì Chân lý chỉ có thể nghiệm chứng chứ không thể diễn tả cho dù là Phật cũng không nói được, nên Ngài mới nói rằng “Ta chưa hề nói một chữ” là vậy. Nói cách khác, Đức Phật dạy chúng sinh đời là bể khổ vì Ngài thấy biết như thế. Nếu Đức Phật là đấng thần linh thì Ngài chỉ cần niệm Úm Ba Di Bát Nhị Hồng rồi phảy cái phất trần thì thế gian làm gì còn khổ đau. Biết đời là bể khổ, nhưng chính Ngài không thể hóa giải nỗi khổ của chúng sinh mà mỗi người phải tự giải thoát lấy những hệ lụy khổ đau của riêng mình mà Phật chỉ là người hướng đạo mà thôi.
Tuy Đức Phật đã khẳng định rằng Ngài không phải là đấng thần linh, không phải là Thượng đế, không phải là đấng cứu thế, nhưng tại sao hàng năm các chùa Phật giáo Việt Nam ở hải ngoại đều gởi thơ để kêu gọi cầu an cầu siêu cho Phật tử? Phải chăng đây là do lòng từ bi của quý Thầy Cô muốn độ chúng sinh? Thật sự cầu siêu có phải là của Phật giáo không?
Để giải thích cho nghi vấn nầy, chúng tôi xin trích đăng nguyên văn một đoạn trong bộ “Giáo Khoa Phật Học cấp 2” do Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam ấn hành như sau:
“…Về tập tục tụng kinh siêu độ cho người chết, theo hòa thượng Đạo An, vốn không phải là một tập tục truyền thống của Phật giáo. Tập tục này chỉ bắt đầu có ở Trung Quốc từ đời nhà Đường. Vì theo sử chép thì năm 738, vua Đường Huyền Tông đã ban sắc lệnh cho toàn quốc, ở mỗi quận đều xây một ngôi chùa, đều đặt tên là chùa Khai Nguyên (Khai Nguyên là niên hiệu thứ nhì của vua Huyền Tông). Đó là chùa công, do các quan lại địa phương trông coi, dùng làm nơi tổ chức các lễ tiết quốc gia, cầu quốc thái dân an. Việc làm này vừa có ý nghĩa đem ân huệ của Phật ban đến quốc dân, cũng vừa để biểu thị quyền uy của chính quyền trung ương.
Năm 755, An Lộc Sơn nổi loạn, kéo binh về chiếm kinh thành, khiến vua Huyền Tông phải chạy vào Tứ Xuyên lánh nạn. Một năm sau thì quân triều đình dẹp yên giặc loạn. Trong một năm chiến tranh này, số người chết gồm các chiến sĩ của cả hai bên và thường dân nhiều vô kể. Triều đình bèn ra chỉ dụ cho tất cả các chùa Khai Nguyên trong toàn quốc, thỉnh chư vị cao tăng đại đức, thiết lễ tụng kinh siêu độ cho chiến sĩ và thường dân đã chết trong cuộc chiến vừa qua, đồng thời an ủi các gia đình nạn nhân. Dân chúng thấy triều đình làm như thế, bèn bắt chước làm theo, cứ mỗi khi trong nhà có người chết, liền thỉnh chư tăng tụng kinh siêu độ. Từ đó mà lễ cầu siêu độ cho người chết trở thành một tập tục trong dân gian”.
Vua Đường Huyền Tông vì dùng quyền lực của một vì vua mà bắt ép Dương Thái Chân lúc bấy giờ là người tình của tướng An Lộc Sơn vào cung làm Dương Phi. Vì quá phẫn nộ An Lộc Sơn tạo phản làm vua tôi nhà Đường phải chạy vào Tứ Xuyên lánh nạn. Trên đường bôn tẩu ba đào, vua phải cắn răng chiều lòng ba quân tướng sĩ giết chết Dương Thái Phi. Tuy chiếm được Trường An, nhưng người ngọc Dương Thái Chân đã thành người thiên cổ nên An Lộc Sơn chỉ nắm được trong tay một xác thân giá lạnh, cứng ngắc, đã bốc mùi hôi thúi, chảy nước vàng. Nếu An Lộc Sơn biết “Quán thân bất tịnh” nghĩa là quán chiếu để biết rằng thân xác con người là nhơ nhớp, hôi thúi và được che đậy bởi một lớp da mỏng mềm dịu êm ái bên ngoài để quyến rũ con người vào vòng tội nghiệp cũng như viên thuốc độc bọc đường thì cho dù có mười Dương Thái Chân, An Lộc Sơn cũng không màng, không gây loạn chớ đâu phải đợi đến khi ôm cái thây ma thối tha thì ông mới biết thân này là bất tịnh. Do đó cho dù là Tây Thi, Trịnh Đán thì đến khi già, khi bệnh cũng không thoát khỏi cái luật vô thường cay nghiệt đó. Vì thế mà người xưa có câu:
Má thoáng hương mai, mặt nhụy đào,
Thấy rồi mắt dán, ý nao nao.
Thảy đều một đãy da hôi thúi,
Thầm cắt ruột người chẳng dụng dao.
Nghĩa là khi thấy một người đẹp, tuyệt sắc giai nhân thì mắt nhìn mãi không rời và lòng xốn xang xao xuyến nao nao. Nhưng xét cho cùng đó chỉ là cái dáng bên ngoài vì bên trong chỉ là một đãy da hôi thúi. Do đó càng đắm mê sắc đẹp thì càng dễ gặp tai họa cũng như ngày xưa vua Ngô Phù Sai vì say mê sắc đẹp Tây Thi, ngày đem vui chơi trên Cô Tô Đài mà quên cả giang sơn quốc sự nên về sau bị vua Việt Câu Tiển kéo quân sang đánh làm nước Ngô tan nát và vua Ngô phải chết. Vì thế kẻ tham mê sắc dục thì đạo đức tiêu tan, vợ chồng bất hòa, gia phong bại hoại.
Là người Việt Nam không ai mà không biết được hình ảnh quen thuộc của Thúy Kiều, một tuyệt sắc giai nhân, đã được thi hào Nguyễn Du diễn tả như sau:
“Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da…
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh…”.
Đẹp như thế mà tại sao về sau nàng Kiều cũng phải than rằng:
“Xót thay chiếc lá bơ vơ,
Kiếp trần biết giữ bao giờ cho xong.
Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,
Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan…” .
Nếu sắc đẹp thật sự mang lại hạnh phúc thì tại sao Thúy Kiều lại than trời trách đất, sống dở chết dở như vậy. Hay là:
“Rằng :
Hồng nhan tự nghìn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”.
Nguyễn Du vì không thể giải thích hiện tượng hồng nhan bạc mệnh nên đổ hết tội cho ông trời và thuyết định mệnh của Nho giáo. Nhưng trên thế giới, từ cổ đến kim, từ Đông qua Tây không nhất thiết hễ là người đẹp thì phải chịu cảnh ”má hồng phận bạc” như Nguyễn Du nói đâu? Biết bao hoa khôi, mệnh phụ phu nhân có hạnh phúc tràn đầy. Do đó, thuyết định mệnh không làm Thúy Kiều đau khổ, mà đây chính là luật nhân quả của nhà Phật đã chi phối ảnh hưởng cuộc đời của Thúy Kiều và của tất cả chúng sinh. Dựa theo Phật giáo, nếu chúng sinh khéo gieo nhân thì người đó cũng có thể tạo cho mình một quả báo để có diện mạo đẹp đẽ về sau, nhưng nét đẹp đó không liên quan gì tới đạo đức cả.
Vì thế, họ có thể là tuyệt thế mỹ nhân nhưng vẫn phải gánh chịu những nỗi bất hạnh như thường. Muốn có cuộc sống hạnh phúc thì họ phải gieo nhân lành, biết bố thí cúng dường, biết kiên trì giữ giới hạnh, hiếu đễ với cha mẹ, sắt son chung thủy với bạn đời, tín nghĩa với bạn bè, trung hậu với chủ nhân…Chính những phước duyên này sẽ kiến tạo cho họ ở đời sau chẳng những là một tuyệt thế mỹ nhân mà còn là người duyên dáng đạo đức làm mọi người kính mến, thương yêu.
Chính vậy mà Nguyễn Gia Thiều cũng nói rằng :
“Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng,
Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa”.
Bây giờ hãy lắng nghe Thái tử Tất Đạt Đa than thở với Công chúa Da Du Đà La trước khi Ngài đi xuất gia:
”Chúng ta sẽ già yếu và xấu đi. Thời gian sẽ phủ lên đầu chúng ta những lớp tro bạc. Ôi! Mặt trong của nàng rồi sẽ mờ đục. Môi thắm của nàng rồi sẽ úa màu. Ta nghe trong ta, trong nàng và trong tất cả mọi người, mỗi ngày mỗi đổ vỡ dưới sức tàn phá của cái búa thời gian…Chúng ta ôm giữ một cách tuyệt vọng những bảo vật ở trong ta như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương.”.
Vì vậy cuộc tiệc nào chẳng có lúc tàn, dung nhan nào chẳng có lúc tàn phai do đó chỉ có cái đẹp tự trong tâm hồn là cái đẹp bền vững, không bao giờ phai nhạt và không còn sợ bị quỷ vô thường ám hại.
Thế thì cầu an cầu siêu “không phải” là truyền thống của Phật giáo. Chúng sinh phải tự hỏi rằng Phật hay Bồ-tát có thể tiêu trừ những khổ đau, tội nghiệp và những rắc rối của mình được không? Nói cách khác, mình tạo nhân mà người khác chuyển quả có được không? Một người ăn mà người khác có no được không? Con người phải trực tiếp nhận lãnh trách nhiệm của chính mình cho những gì sảy ra đến với mình. Người làm lành sẽ được thưởng quả tốt, ngược lại, kẻ gieo nhân ác sẽ phải thọ lãnh điều bất hạnh thế thôi. Luật nghiệp quả rất công bình, hợp lý và không thiên vị bất cứ một ai cho dù đó là Đức Phật. Một kiếp quá khứ, tiền thân Đức Phật vì lở tạo khẩu nghiệp, cho đến kiếp này mặc dù đã thành Phật vẫn phải trả như thường. Ngài phải ăn lúa dành để nuôi ngựa đến 3 tháng mới xóa được nghiệp bất thiện này. Vì thế nếu con người muốn cải thiện đời sống của mình thì nó tùy thuộc vào sự thay đổi cách cư xử, lối sống và những thái độ nhằm để tác động những gì sẽ xảy ra trong tương lai.
Đức Phật không dạy cầu an cầu siêu vì có cầu cũng chẳng được bởi vì nhân nào quả nấy, trồng khế thì ăn quả chua còn trồng quít thì hưởng quả ngọt thế thôi. Con người khi còn sống thì dối người, lợi mình. Dối người chưa đủ họ còn quay lại dối mình và dối luôn cả Phật trời. Nhưng khi chết thì thân vật lý đâu còn nữa để che đậy sự dối trá của mình nên tất cả các nghiệp thiện ác hiện ra rất rõ ràng trong thân trung ấm (thân tư tưởng trong hư không) để đưa họ tái sinh tương xứng với quả nghiệp của họ. Khi đi tái sinh thì cái ngã tan vỡ đâu còn nên hài nhi không còn nhớ mình là ai, từ đâu đến, đã làm những việc thiện ác gì. Từ đây nó mang một hình hài mới, sắc diện mới, tên họ mới, cha mẹ anh em dòng họ mới và một cuộc đời mới tương xứng với tất cả những quả nghiệp mà nó đã tạo tác từ những đời quá khứ. Cái ngã cũ không còn, tên họ cũ mất đi.
Thí dụ ngày xưa là Nguyễn văn A bây giờ tái sinh thành ra John Smith thì ông A vĩnh viễn biến mất trong thế gian rồi, còn đâu nữa mà cầu. Ngày xưa tôn giả Mục Kiền Liên là thánh Tăng mà không siêu nổi cho mẹ ông thì phàm tăng đời nay có ai dám bảo đảm làm được? Còn nếu năm nay các chùa tụng kinh cầu siêu cho ông bà chúng ta được siêu sinh tịnh độ rồi, thì năm tới tại sao các chùa cũng tiếp tục gởi thơ để cầu siêu nữa? Nếu đã siêu rồi thì tại sao năm nào cũng cầu? Cầu đến bao nhiêu năm mới được siêu? Dựa theo Phật giáo, nếu muốn siêu thì khi còn sống con người phải lo tu tâm dưỡng tánh, làm lành tránh dữ, vun bồi phước đức và công đức để biến cuộc sống thành an vui tự tại, thanh tịnh giải thoát thì khi nhắm mắt sẽ được an nhiên siêu thoát mà không cần ai cầu ai nguyện chi cả.
Hãy nghe tiến sĩ Oldebburg, một học giả người Đức phát biểu rằng:
- Đức Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài dạy con người phải tự chính mình giải thoát lấy mình, như chính Ngài đã tự giải thoát lấy Ngài. Con người chấp nhận giáo lý của Ngài là chân lý, không phải giáo lý này đến từ nơi Ngài, nhưng vì lòng xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ của chính mình.
Ngay cả Giáo sư Eliot viết trong cuốn “Phật giáo và Ấn Độ giáo” rằng:
- Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, Đức Phật tuyên bố sự giải thoát, mỗi con người có thể đạt được do chính bản thân mình trong đời sống của mình trên thế giới mà không cần đến sự giúp đở của Thượng đế hay thánh thần nào. Ngài nhấn mạnh về giáo lý như lòng tự tin, thanh tịnh, nhã nhặn giác ngộ, an lạc và lòng thương yêu nhân loại. Ngài cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết của trí tuệ vì không có nó thì siêu linh nội tâm không xâm nhập trong đời sống của Ngài được.
Tóm lại, đạo Phật không phải là đạo đổi chác, không phải là đạo ban bố phép mầu và cũng không phải là đạo hứa hẹn. Sự giải thoát giác ngộ hay sự an lạc thanh tịnh Niết bàn thật ra tự chúng sinh đem lại cho mình chớ Phật không ban bố cho ai cả. Vì thế, tuy đạo Phật là đạo của từ bi, trí tuệ và lòng dũng cảm, nhưng nếu con người không tin vào lòng từ bi để thương yêu, ban vui cứu khổ để cứu giúp chúng sinh; vào khả năng phát triển trí tuệ để chứng đạt chân lý ngỏ hầu thấu biết được thật tướng nhân sinh vũ trụ và lòng dũng cảm để vượt qua sóng gió chập chùng mà chiến thắng được vô minh phiền não của mình mà chỉ muốn cầu xin, van vái thần linh để có hạnh phúc thì con đường họ đi chắc chắn “ không phải” là đạo Phật.
Lê Sỹ Minh Tùng