Một
loại cây thân nhẵn, hoa
không
hương, có nguồn gốc từ Nepal và Ấn Độ, Tây Nam Trung Hoa, Đông Dương và Việt
Nam. Vỏ cây màu xám nhạt, có thể bóc rời từng mảnh lớn, gỗ mềm, thớ mịn đều,
nhẹ, dễ chẻ, được dùng trong công nghiệp giấy hay làm tăm xỉa răng… Nhựa cây màu
trắng đục, có mùi thơm thường được sử dụng để chế biến
nước
hoa và trong y học.
Lá
cây mang dạng hình thoi, tam giác hay trái tim và có đuôi ở chóp lá. Khi còn non
là màu đỏ hồng nhạt, lúc trưởng thành chuyển sang màu xanh lục điểm tía. Hoa nhỏ
màu đỏ, thường nở vào tháng hai. Phiến lá mỏng và giòn, có 6-8 đôi gân ; dài
12-18 cm, rộng 7-10 cm. Cuống lá mảnh, dài 5-8 cm. Lá được dùng làm thực phẩm
nuôi thú vật hay gia súc
rất
tốt, bởi vì lá chứa khoảng 9% chất đạm, 2.7 % chất béo, 68.3 % chất
carbohydrates tổng cộng, 15.9 % chất xơ.
Trái
tuy không ăn được như những trái cây khác, nhưng nó cũng có nhiều công dụng
trong y học. Trái có hình thù giống như quả sung, không cuống, có đường kính
khoảng 7-8 mm. Khi còn non màu xanh, khi chín màu đỏ xậm hay tím bầm pha trộn
các chấm đỏ trên da. Cây bắt đầu
cho
trái từ
tháng
5 hay tháng 6. Cây sống rất lâu và hiện nay ở Tích Lan còn một cây đã sống trên
2000 năm.
Thành
phần ứng dụng của các bộ phận trong cây được dùng khá phổ biến để trị một số
bệnh thông thường theo y học cổ truyền Ấn Độ:
Vỏ
cây: Chất làm se, hạ nhiệt, tăng sinh lý, kháng khuẩn, bệnh lậu, tiêu chảy,
kiết lỵ, bệnh trĩ, chống viêm, phỏng, bệnh ngoài da, ghẻ, nấc cục, nôn mửa.
Lá
và chồi cây hay cành non : Tẩy trùng vết thương, bệnh ngoài da thầu.
Nước
cốt của lá : Hen suyễn, ho, rối loạn tình dục, tiêu chảy, đái ra máu, đau răng,
nhức đầu đông, mắt loạn, các vấn đề về dạ dày, ghẻ.
Nước
xắc của lá
:
Giảm đau cho đau răng.
Trái
khô : Bệnh lao, sốt, tê liệt, bệnh trĩ.
Trái
tươi : Hen suyễn, nhuận tràng, tiêu hóa.
Hột
: Hạ nhiệt, nhuận tràng.
Nhựa
: Đau dây thần kinh, các chứng viêm, xuất huyết.
Thành
phần hóa học:
Vỏ
cây chứa các chất hóa học: Tannins, saponins, flavonoids, steroids, terpenoids,
cardiac glycosides, bergapten, bergaptol, lanosterol, β-sitosterol,
stigmasterol, lupen-3-one, β-sitosterol-d-glucoside (phytosterolin), vitamin k1,
tannin, wax, saponin, β-sitosterol, leucocyanidin-3-0-β-D-glucopyrancoside,
leucopelargonidin-3-0-β-D-glucopyranoside, leucopelargonidin-3-0-α-L-
rhamnopyranoside, lupeol, ceryl behenate, lupeol acetate, α-amyrin acetate,
leucoanthocyanidin và leucoanthocyanin.
Lá
chứa các chất hóa học : Campestrol, stigmasterol, isofucosterol, α-amyrin,
lupeol, tannic acid, arginine, serine, aspartic acid, glycine, threonine,
alanine, proline, tryptophan, tryosine, methionine, valine, isoleucine, leucine,
n-nonacosane, n-hentricontanen, hexa-cosanol and n-octacosan.
Trái
chứa các chất hóa học : Asgaragine, tyrosine, undecane, tridecane, tetradecane,
(e)-β-ocimene, α-thujene, α-pinene, β-pinene, α-terpinene, limonene,
dendrolasine, dendrolasine α-ylangene, α-copaene, β-bourbonene, β-caryophyllene,
α-trans bergamotene, aromadendrene, α-humulene, alloaromadendrene, germacrene,
bicyclogermacrene, γ-cadinene, δ-cadinene,
Hột
chứa các chất hóa học : Alanine, threonine, tyrosine.
Nhựa
sống chứa các chất hóa học :
Religiosin.
Bảng
phân khoa học :
Giới
: Plantae
Nghành
: Magnoliophyta
Lớp
: Magnoliopsida
Bộ
: Urticales
Họ
: Moracea
Chi:
Ficus
Loài
: Ficus religiosa
Ficus
là danh từ Latin dùng để chỉ cho những cây thực vật thuộc họ Moraceae như : Cây
sung, cây đa, cây đề.
Bảng
biến hóa thân từ của ficŭs ở dạng nữ tính trong tiếng Latin
Trường
hợp |
Số
ít |
Số
nhiều |
Chủ
cách |
ficŭs |
ficūs |
Hô
cách |
ficŭs |
ficūs |
Cách
trực bổ |
ficŭm |
ficūs |
Cách
sở hữu |
ficūs |
ficŭŭm |
Cách
gián bổ |
ficūi hay ficū |
ficĭbŭs |
Cách
tách ly |
ficū |
ficĭbŭs |
Bảng
biến hóa thân từ của ficus ở dạng nam tính trong tiếng Latin
Trường
hợp |
Số
ít |
Số
nhiều |
Chủ
cách |
ficus |
ficī |
Hô
cách |
fice |
ficī |
Cách
trực bổ |
ficum |
ficōs |
Cách
sở hữu |
ficī |
ficōrum |
Cách
gián bổ |
ficō |
ficīs |
Cách
tách ly |
ficō |
ficīs |
Chữ
Religiosa có gốc từ tĩnh từ Religiosus trong tiếng Latin. Religiosus có những
nghĩa được biết như sau : Đắn đo, thận trọng, chu đáo, cái nhìn tôn kính đối với
Thượng đế, Đáng kính.
Bảng
biến hóa thân từ của religious ở 3 dạng khác nhau trong tiếng Latin
Trường
hợp |
Số
ít |
|
|
Số
nhiều |
|
|
|
Nam
tính |
Nữ
tính |
Trung
tính |
Nam
tính |
Nữ
tính |
Trung
tính |
Chủ
cách |
religiosus |
religiosa |
religiosum |
religiosi |
religiosae |
religiosa |
Hô
cách |
religiose |
religiosa |
religiosum |
religiosi |
religiosae |
religiosa |
Cách
trực bổ |
religiosum |
religiosam |
religiosum |
religiosos |
religiosas |
religiosa |
Cách
sở hữu |
religiosi |
religiosae |
religiosi |
religiosorum |
religiosarum |
religiosorum |
Cách
gián bổ |
religioso |
religiosae |
religioso |
religiosis |
religiosis |
religiosis |
Cách
tách ly |
religioso |
religiosa |
religioso |
religiosis |
religiosis |
religiosis |
Cây
Ficus religiosa được xem là một cây linh thiêng của Ấn giáo. Qua 49 ngày thiền
định dưới gốc cây này, mà Thái tử Siddhartha đã ngộ đạo và trở thành một vị Phật
lịch sử của nhân loại, được biết cho tới ngày hôm nay.
Qua
việc hoàn toàn giác ngộ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và để tưởng nhớ đến cây đã
che chở cho Ngài trong những ngày nắng mưa, cho nên người ta mới đặt tên cho nó
là cây Bồ đề.
Bồđề
là danh từ dịch âm từ chữ bodhi trong tiếng Phạn,viết theo mẫu
devanāgarī :
बोधि.
Trong thời Phật giáo nguyên thuỷ, Bồ đề dùng để chỉ trạng thái cho người tu
chứng được bốn cấp Thánh đạo (Phạn ngữ. āryamārga) bằng cách hành trì 37 Bồ đề
phần và Tứ diệu đế.
बोधि
bodhi có gốc từ chữ bodh và बोधि
bodhi có những nghĩa được biết như sau : Khoa học, Thông minh, Sự hiểu biết am
tường, Sự tiết lộ,
Sự
phát hiện, Điều phát hiện, Sự chiếu sáng, Sự soi sáng, Thiên khải,
Sự
giải thoát khỏi mối phiền não, Sự giác ngộ của một vị Phật.
Bảng
biến hóa thân từ của bodhiḥở
dạng nữ tính:
Nữ
tính |
Số
ít |
Số
hai |
Số
nhiều |
Chủ
cách |
bodhiḥ
|
bodhī
|
bodhayaḥ
|
Hô
cách |
bodhe
|
bodhī
|
bodhayaḥ
|
Cách
trực bổ |
bodhim
|
bodhī
|
bodhīḥ
|
Cách
dụng cụ |
bodhyā
|
bodhibhyām
|
bodhibhiḥ
|
Cách
gián bổ |
bodhyai
| bodhaye |
bodhibhyām
|
bodhibhyaḥ
|
Cách
tách ly |
bodhyāḥ
| bodheḥ |
bodhibhyām
|
bodhibhyaḥ
|
Cách
sở hữu |
bodhyāḥ
| bodheḥ |
bodhyoḥ
|
bodhīnām
|
Cách
vị trí |
bodhyām
| bodhau |
bodhyoḥ
|
bodhiṣu
|
बोध्
bodh có gốc từ động từ budh_1 ở thời chỉ nguyên nhân. बोध्
bodh là động từ thuộc nhóm 10 và nó có những nghĩa như sau : Thu hút, Phát hiện,
Làm cho sống động lại,
Kích
thích, Làm hưng phấn, Kích động, Thúc đẩy, Cổ vũ, Làm cho thấu hiểu vấn
đề,
Nhắc
lại, gợi lại; làm nhớ đến,
Làm
cho tỉnh lại,
Dạy,
giảng dạy,
Chỉ
đường cho ai,
Báo
cho biết, cho biết, thông báo,
Khuyên,
khuyên bảo, khuyên nhủ.
Giác
là gì ? Ngộ là gì ?
Ngộ
và Giác có khác nhau không ? Giác ngộ mang ý nghĩa gì trong Phật học?
Giác,
Hán-Việt viết : 覺.
Pāli: vedāna. Phạn : vedana, viết theo mẫu
devanāgarī :
वेदन.
Thuật ngữ vedana có gốc từ chữ veda và thân kép –na. Trong ý nghĩa thường,
Vedana được biết như : Sự cảm nhận, Sự hiểu biết, Sự đau đớn. Theo Phật học,
Vedana có nghĩa là Thụ hay Thọ (受),
mà Ðức Phật đã dạy trong Ngũ uẩn (Pañca-skandha).
Thọ
uẩn (Vedana-skandha) là cảm giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà
sinh ra thọ. Ðức Phật nói có 6 thọ như sau : Mắt tiếp xúc với hình sắc mà sinh
thọ, tai với âm thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với vật cứng-mềm, ý với
đối tượng tâm ý. Trong tinh thần Phật học, Cảm giác không dừng lại ở mức độ tiếp
xúc đơn thuần mà còn là cảm xúc, một biểu hiện sâu hơn của cảm giác.
Có
ba loại cảm giác được biết như sau : Cảm giác khổ, Cảm giác vui sướng, Cảm giác
không vui không khổ.
Cảm
giác khổ là một loại cảm giác khó chịu khi ta tiếp xúc với một đối tượng không
thích ý, nó kèm theo một chuỗi tâm lý khó chịu, bất mãn, tránh xa...
Cảm
giác vui sướng là một loại cảm giác dễ chịu, thoải mái, phấn khởi khi ta tiếp
xúc với một đối tượng thích ý, nó tạo cho ta niềm vui, sung sướng xích lại
gần.
Cảm
giác trung tính không khổ không vui, nó không tạo cho ta cảm giác khó chịu hay
dễ chịu, nó không tạo ra một lực hút hay lực đẩy nào.
Ðức
Phật dạy : "Này các thầy Tỳ kheo, phàm cảm thọ gì quá khứ, vị lai hay hiện tại,
nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là thọ uẩn". Chấp
thủ vào cảm thọ bao giờ cũng sai lầm và gặt hái khổ đau.
Trong
kinh Kim Cang có ghi câu Phật dạy : "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược
kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai." Nghĩa là những gì có tướng đều hư
dối, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức là giả, đó là thấy Phật, vì Phật là
Giác.
Trong
Kinh Viên Giác, Bồ tát Văn thù có hỏi Phật: "Thế nào là vô minh?" Đức Phật dạy:
"Chấp thân tứ đại là thật, chấp tâm sanh diệt duyên theo bóng dáng sáu trần là
thật, đó là Vô minh." Vô minh với Minh ở gần bên nhau. Cả hai đều từ Tâm Thân mà
có. Khi người tu biết thay đổi cái nhìn, hay những cảm giác, từ sai lầm, si mê
mà chuyển qua thức tỉnh thì cũng được hiểu như là Giác.
Sau
khi giác ngộ thành đạo, Đức Phật Thích Ca có nói câu đầu tiên : "Lạ
lùng thay, tất cả mọi chúng sinh đều là Phật, có đủ hết mọi đức
hạnh và sự sáng suốt. Nhưng đầu óc bị xáo trộn bởi những tư tưởng
sai lầm, cho nên không nhận ra bản chất sáng suốt của chính mình. Tỉnh
ngộ và tìm lại bản chất thánh thiện đều có sẳn trong thân tâm của mỗi
người. Ta là Phật đã thành các ngươi là Phật sẽ thành."
Đây
cũng là ngụ ý mà Đức Phật đã nhìn thấy được khả năng tinh thần phát sinh ứng
dụng ý thức lý trí, để đánh thức những năng lực từ vô thức sâu thẳm bên trong
của mọi người, qua kinh nghiệm đạt được của chính Ngài.
Học
Phật là học cách nhìn và cảm nhận sự vật đúng với con mắt thức tỉnh tức là chấp
nhận và sống với cái thật của mình bằng
chánh
niệm.
Thực
hành theo bất cứ cách nào cũng sẽ đạt được mục đích đem Tâm đến một trạng thái
sáng suốt, quân bình, nhằm giúp cho Thiện pháp sẳncó trong thân tâm của mỗi
người đang chờ sự tỉnh thức và quyết tâm của từng cá nhân, để có thể đi đến kết
quả thấy biết như thật trong việc
thành
tựu đoạn trừ ái, thủ.
Đoạn
trừ ái, thủ được thành công, không gì khác hơn, là nhờ vào sự vận dụng hữu hiệu
trợ giúp quan trọng của Trí tuệ để dập tắt khát ái. Khát ái được đoạn tận thì
chấp thủ được đoạn tận, vô minh được đoạn tận.
Trí
tuệ là yếu tố quan trọng trực tiếp đưa tới việc Tỉnh thức trong đời tu Phật. Nó
không phải là các năng lực thần bí. Sự tu tập không nên chấp vào phương pháp, mà
điều chủ yếu cần nên biết là việc phát triển chánh niệm. Cây sen không cần phải
tránh xa bùn để không bị ô nhiễm, bởi vì cấu trúc bẫm sinh tự nhiên của nó đã
không thể thấm bùn. Đức Phật được người ta gọi là Toàn giác, bởi vì Ngài giác
ngộ bằng sự thực hành, trải nghiệm của chính Ngài.
Ý
thức và cảm nhận được mọi sự thay đổi của thân thể,
chính
là sự khai triển khả năng tỉnh thức thường trực, cũng được hiểu như là Giác. Cái
khả năng tỉnh thức thường trực sẵn có mà người lại hay quên, thì đây là một
trong những
nguyên
nhân đầu tiên không thoát ra ngoài được các nhận thấy như thực tự nhiên của sự
vật.
Trong
ý nghĩa giản dị của chữ Giác là sự
tỉnh
thức thường trực để giúp con người định hướng rõ ràng hơn trong cách làm việc
cũng như cách sống hàng ngày.
Giác
trong Phật học có thể hiểu như sự nhận biết được như thực, nhằm
nói
lên một sự thật, một chân lý tất yếu, để chỉ cho con người có thể nhận biết khả
năng thành Phật của mình trong tương lai, mà các đời chư Phật đã làm trong quá
khứ của các đời chư Phật.
Thành
Phật có nghĩa là đạt đến địa vị tỉnh thức hoàn toàn và giải thoát vô minh trọn
vẹn. Đức Phật đã đạt đến, chúng sanh tinh tấn nỗ lực tu hành bằng khả năng thánh
thiện của mình, rồi cũng sẽ đạt đến Phật quả, bởi vì chúng sanh sẵn có Phật tánh
rồi.
Phật
tánh là mầm lương thiện sẳn có trong mỗi người, và cũng là một món thuốc qúy
nuôi dưỡng Tâm để nuôi cái sống. Phật tánh không thuộc về riêng ai. Phật tánh
không có giai cấp phân biệt và không có sự riêng tư, như Đức Phật đã khai thị
trong Kinh Pháp Hoa:
Tất
cả chúng sinh đều có Phật tánh.
Tất
cả chúng sinh đều có khả năng giác ngộ tối thượng.
Tất
cả chúng sinh đều sẽ thành Phật.
Trước
khi tin chắc vào lời Phật nói. Trước khi tin chắc vào khả năng tỉnh
thức
của
chính mình. Trước khi tin chắn sẽ thành Phật.
Là
Phật tử hay không phải là Phật tử, nên thử tìm hiểu và kiểm chứng một cách
nghiêm túc trong cách tự tu tập riêng của bản thân, để hiểu thêm ý nghĩa về chữ
Giác, qua những lời
Ðức
Phật đã dạy dưới đây:
1)
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
2)
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
3)
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên
truyền.
4)
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong sách vở hay kinh
điển.
5)
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó lý luận siêu hình.
6)
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.
7)
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.
8)
Chớ vội tin điều gì, khi điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời
hợt.
9)
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.
10)
Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình
tuyên thuyết.
Biết
thân giả, tâm sanh diệt giả, đó cũng là Giác. Thuật ngữ Vedana वेदन
(Giác) có gốc từ chữ veda và thân kép –na.
Bảng
biến hóa thân từ của vedana
ở dạng trung tính:
Trung
tính |
Số
ít |
Số
hai |
Số
nhiều |
Chủ
cách |
vedanam
|
vedane
|
vedanāni
|
Hô
cách |
vedana
|
vedane
|
vedanāni
|
Cách
trực bổ |
vedanam
|
vedane
|
vedanāni
|
Cách
dụng cụ |
vedanena
|
vedanābhyām
|
vedanaiḥ
|
Cách
gián bổ |
vedanāya
|
vedanābhyām
|
vedanebhyaḥ
|
Cách
tách ly |
vedanāt
|
vedanābhyām
|
vedanebhyaḥ
|
Cách
sở hữu |
vedanasya
|
vedanayoḥ
|
vedanānām
|
Cách
vị trí |
vedane
|
vedanayoḥ
|
vedaneṣu
|
Bảng
biến hóa thân từ của vedana
ở dạng nữ tính:
Nữ
tính |
Số
ít |
Số
hai |
Số
nhiều |
Chủ
cách |
vedanā
|
vedane
|
vedanāḥ
|
Hô
cách |
vedane
|
vedane
|
vedanāḥ
|
Cách
trực bổ |
vedanām
|
vedane
|
vedanāḥ
|
Cách
dụng cụ |
vedanayā
|
vedanābhyām
|
vedanābhiḥ
|
Cách
gián bổ |
vedanāyai
|
vedanābhyām
|
vedanābhyaḥ
|
Cách
tách ly |
vedanāyāḥ
|
vedanābhyām
|
vedanābhyaḥ
|
Cách
sở hữu |
vedanāyāḥ
|
vedanayoḥ
|
vedanānām
|
Cách
vị trí |
vedanāyām
|
vedanayoḥ
|
vedanāsu
|
Thuật
ngữ Vedana có gốc từ chữ वेद
veda và Veda có những nghĩa được biết như sau : Sự hiểu biết, Khoa học, Lời nói
mầu nhiệm, Sự hiểu biết có tính soi sáng.
Bảng
biến hóa thân từ của veda
ở dạng nam tính:
Nam
tính |
Số
ít |
Số
hai |
Số
nhiều |
Chủ
cách |
vedaḥ
|
vedau
|
vedāḥ
|
Hô
cách |
veda
|
vedau
|
vedāḥ
|
Cách
trực bổ |
vedam
|
vedau
|
vedān
|
Cách
dụng cụ |
vedena
|
vedābhyām
|
vedaiḥ
|
Cách
gián bổ |
vedāya
|
vedābhyām
|
vedebhyaḥ
|
Cách
tách ly |
vedāt
|
vedābhyām
|
vedebhyaḥ
|
Cách
sở hữu |
vedasya
|
vedayoḥ
|
vedānām
|
Cách
vị trí |
vede
|
vedayoḥ
|
vedeṣu |
वेद
Veda có gốc từ chữ वेद्
Ved và वेद्
Ved có gốc từ động từ vid_1, dùng ở thời chỉ nguyên nhân. वेद्
Ved là động từ thuộc nhóm 10 và nó có những nghĩa được biết như sau : Báo cho
ai biết một điều gì đó, Thông báo, Làm cho ai hiểu biết cái gì đó, Hướng dẫn,
Chỉ bảo, Truyền đạt.
Biết
thân
này giả. Biết
tâm
sanh diệt giả trong sự biến hóa vô thường của sự vật, bằng chánh niệm qua quá
trình tu tập, là hiểu ra được (Ngộ, 悟)
cái yếu tính của sự vật như thế là như thế. Hiểu được như vậy thì mới thấy cái
chân thật không sanh diệt, đó chính là lúc nhận và sống với cái Tánh giác sẵn có
của chính mình. Người nhận thấy và hiểu biết được lý này, thì đã hiểu được đầy
đủ tất cả ý nghĩa diệu dụng ý nghĩa của câu hỏi : Giác ngộ là cái gì?. Và khi đã
hiểu được
Giác
ngộ là cái gì rồi, thì không còn những gì nghi vấn nữa trên con đường tu tập,
ngày nay chưa được, ngày mai tiếp tục… Cứ rèn luyện
như
thế,
sẽ
thấy lý do tại sao Phật tánh mình vốn có sẵn, nếu nhận ra nó thì mình thành
Phật, còn nếu mình quên nó thì nó cũng không mất. Có phải là chuyện lạ thường
không?
Một
thành tựu cần thiết cho quá trình tu tập để đoạn tận khổ đau,
cũng đều
tùy
thuộc
vào
bản chất của con đường tu tập. Bản chất này bao gồm những yếu tố như sau:
Trạch
pháp (dharmapravicaya), phân tích, biết phân biệt đúng sai.
Tinh
tiến (vīrya).
Hỉ
(prīti), tâm hoan hỉ.
Khinh
an (praśabdhi), tâm thức sảng khoái.
Niệm
(smṛti), tỉnh giác.
Định
(samādhi), có sự tập trung lắng đọng.
Xả
(upekṣā), lòng buông xả, không câu chấp.
Con
đường tu luyện để đắc đạo đương nhiên rất khó. Vì bắt buộc phải đi ngược dòng
thế tục. Người tu Phật
được
Đức Phật
dạy
làm sao để biết chính mình thật sự có mặt và sống an lạc chung với tất
cả
đại
chúng, qua sự đã giác ngộ của Ngài, như thế đó, thì sự an lạc đó cũng được gọi
là Tathāgata. Do đó Như Lai không từ đâu đến và cũng không đi về đâu cả. Không
thuộc về sự mong cầu mang tính cá nhân.
Hiểu
được Chân như tức là hiểu được cái nhất thể của khách thể và chủ thể trong thế
giới nhị nguyên, và biết phải làm sao để thoát khỏi thế giới bằng đỉnh cao của
Trí tuệ. Đây cũng chính là lý do tại sao Chân Như cũng còn được gọi là :
"Như Lai Tạng (Tathàgatagarbha), Phật tính, Pháp thân". Như Lai là một hiện
tại được nhân cách hóa, nhưng bản chất thực sự của nó nằm ở trong thân tâm của
một vị Phật và mỗi người đều có thể hiện được để trở thành Như Lai như Đức Phật
Thích Ca.
Ngoài
cái tên Bodhi mà người ta đã đặt cho cây Ficus religiosa, từ khi
Thái
tử Tất-đạt-đa Cồ-đàm đạt giác ngộ, đã trở thành một vị Phật.
Cây
Bồ đề này được gọi là Aśvattha,
अश्वत्थ,
trong phạn ngữ
và
Assattha
theo tiếng Pali.
Aśvattha
có gốc từ chữ Aśva, अश्व
và Stha
स्थ.
अश्व
Aśva có nghĩa là con ngựa, con ngựa trong bàn cờ vua, Aśvā là thân từ ở dạng nữ
tính và nghĩa của nó là con ngựa cái.
Bảng
biến hóa thân từ của aśvattha
ở dạng nam tính:
Nam
tính |
Số
ít |
Số
hai |
Số
nhiều |
Chủ
cách |
aśvatthaḥ
|
aśvatthau
|
aśvatthāḥ
|
Hô
cách |
aśvattha
|
aśvatthau
|
aśvatthāḥ
|
Cách
trực bổ |
aśvattham
|
aśvatthau
|
aśvatthān
|
Cách
dụng cụ |
aśvatthena
|
aśvatthābhyām
|
aśvatthaiḥ
|
Cách
gián bổ |
aśvatthāya
|
aśvatthābhyām
|
aśvatthebhyaḥ
|
Cách
tách ly |
aśvatthāt
|
aśvatthābhyām
|
aśvatthebhyaḥ
|
Cách
sở hữu |
aśvatthasya
|
aśvatthayoḥ
|
aśvatthānām
|
Cách
vị trí |
aśvatthe
|
aśvatthayoḥ
|
aśvattheṣu
|
Bảng
biến hóa thân từ của aśvatthāở
dạng nữ tính:
Nữ
tính |
Số
ít |
Số
hai |
Số
nhiều |
Chủ
cách |
aśvatthā
|
aśvatthe
|
aśvatthāḥ
|
Hô
cách |
aśvatthe
|
aśvatthe
|
aśvatthāḥ
|
Cách
trực bổ |
aśvatthām
|
aśvatthe
|
aśvatthāḥ
|
Cách
dụng cụ |
aśvatthayā
|
aśvatthābhyām
|
aśvatthābhiḥ
|
Cách
gián bổ |
aśvatthāyai
|
aśvatthābhyām
|
aśvatthābhyaḥ
|
Cách
tách ly |
aśvatthāyāḥ
|
aśvatthābhyām
|
aśvatthābhyaḥ
|
Cách
sở hữu |
aśvatthāyāḥ
|
aśvatthayoḥ
|
aśvatthānām
|
Cách
vị trí |
aśvatthāyām
|
aśvatthayoḥ
|
aśvatthāsu
|
Bảng
biến hóa thân từ của aśva
ở dạng nam tính:
Nam
tính |
Số
ít |
Số
hai |
Số
nhiều |
Chủ
cách |
aśvaḥ
|
aśvau
|
aśvāḥ
|
Hô
cách |
aśva
|
aśvau
|
aśvāḥ
|
Cách
trực bổ |
aśvam
|
aśvau
|
aśvān
|
Cách
dụng cụ |
aśvena
|
aśvābhyām
|
aśvaiḥ
|
Cách
gián bổ |
aśvāya
|
aśvābhyām
|
aśvebhyaḥ
|
Cách
tách ly |
aśvāt
|
aśvābhyām
|
aśvebhyaḥ
|
Cách
sở hữu |
aśvasya
|
aśvayoḥ
|
aśvānām
|
Cách
vị trí |
aśve
|
aśvayoḥ
|
aśveṣu
|
Bảng
biến hóa thân từ của aśvattha
ở dạng nam tính:
|
|
|
|
Chủ
cách |
aśvā
|
aśve
|
aśvāḥ
|
Hô
cách |
aśve
|
aśve
|
aśvāḥ
|
Cách
trực bổ |
aśvām
|
aśve
|
aśvāḥ
|
Cách
dụng cụ |
aśvayā
|
aśvābhyām
|
aśvābhiḥ
|
Cách
gián bổ |
aśvāyai
|
aśvābhyām
|
aśvābhyaḥ
|
Cách
tách ly |
aśvāyāḥ
|
aśvābhyām
|
aśvābhyaḥ
|
Cách
sở hữu |
aśvāyāḥ
|
aśvayoḥ
|
aśvānām
|
Cách
vị trí |
aśvāyām
|
aśvayoḥ
|
aśvāsu
|
स्थ
stha có gốc từ chữ sthā_1, thân từ thuộc tĩnh từ và có ba dạng : Nam tính,
trung tính, nữ tính. Sthā_2 c
ó
nghĩa được dùng chỉ cho những hành động như sau : Giữ lấy, ở trong, chiếm đóng,
làm, thực hành, tạm trú.
Bảng
biến hóa thân từ của stha
ở dạng nam tính:
Nam
tính |
Số
ít |
Số
hai |
Số
nhiều |
Chủ
cách |
sthaḥ
|
sthau
|
sthāḥ
|
Hô
cách |
stha
|
sthau
|
sthāḥ
|
Cách
trực bổ |
stham
|
sthau
|
sthān
|
Cách
dụng cụ |
sthena
|
sthābhyām
|
sthaiḥ
|
Cách
gián bổ |
sthāya
|
sthābhyām
|
sthebhyaḥ
|
Cách
tách ly |
sthāt
|
sthābhyām
|
sthebhyaḥ
|
Cách
sở hữu |
sthasya
|
sthayoḥ
|
sthānām
|
Cách
vị trí |
sthe
|
sthayoḥ
|
stheṣu
|
Bảng
biến hóa thân từ của stha
ở dạng trung tính:
Trung
tính |
Số
ít |
Số
hai |
Số
nhiều |
Chủ
cách |
stham
|
sthe
|
sthāni
|
Hô
cách |
stha
|
sthe
|
sthāni
|
Cách
trực bổ |
stham
|
sthe
|
sthāni
|
Cách
dụng cụ |
sthena
|
sthābhyām
|
sthaiḥ
|
Cách
gián bổ |
sthāya
|
sthābhyām
|
sthebhyaḥ
|
Cách
tách ly |
sthāt
|
sthābhyām
|
sthebhyaḥ
|
Cách
sở hữu |
sthasya
|
sthayoḥ
|
sthānām
|
Cách
vị trí |
sthe
|
sthayoḥ
|
stheṣu
|
Bảng
biến hóa thân từ của sthā
ở dạng nữ tính:
Nữ
tính |
Số
ít |
Số
hai |
Số
nhiều |
Chủ
cách |
sthā
|
sthe
|
sthāḥ
|
Hô
cách |
sthe
|
sthe
|
sthāḥ
|
Cách
trực bổ |
sthām
|
sthe
|
sthāḥ
|
Cách
dụng cụ |
sthayā
|
sthābhyām
|
sthābhiḥ
|
Cách
gián bổ |
sthāyai
|
sthābhyām
|
sthābhyaḥ
|
Cách
tách ly |
sthāyāḥ
|
sthābhyām
|
sthābhyaḥ
|
Cách
sở hữu |
sthāyāḥ
|
sthayoḥ
|
sthānām
|
Cách
vị trí |
sthāyām
|
sthayoḥ
|
sthāsu
|
Động
từ căn √ स्था
sthā_1, là động từ thuộc nhóm 1 và nó có những nghĩa như sau : Tự đứng thẳng, tự
bất động, ở, cư ngụ, nhấn mạnh, kéo dài, tự dừng lại, chờ đợi, hiện diện, có mặt
ở nơi nào đó, tự dựa vào, tự lo liệu, tự hiến dâng, thực hành, sống thẳng đứng,
thiết lập, đặt tên, đặt để, ngừng lại.
पिप्पल pippala
cũng là từ đồng nghĩa với Aśvattha,
अश्वत्थ.
Tóm
lại
Ngộ
(悟)
là một thuật ngữ của phái thiền tông, được dùng để chỉ sự nhận thức, trực nhận,
thấu hiểu xuyên suốt, không có sự phân biệt giữa người nhận thức và vật được
nhận thức. Chữ Ngộ thường dùng để chỉ cái kinh nghiệm thức tỉnh ngay tức thì của
nó.
Giác
( 覺
) là một thuật ngữ dùng chỉ sự tỉnh thức, bằng sự cảm nhận và hiểu biết thường
trực. Tiếng Phạn gọi là Vedana, viết theo mẫu devanāgarī : वेदन.
Theo Phật học, Vedana có nghĩa là Thụ hay Thọ (受),
mà Ðức Phật đã dạy trong Ngũ uẩn (Pañca-skandha).
Giác
thường đi với Ngộ thành Giác Ngộ. Phạn ngữ gọi là bodhi, viết theo mẫu
devanāgarī : बोधि
. Bodhi có gốc từ chữ bodh và nó có những nghĩa được biết như sau : Khoa học,
Thông minh, Sự hiểu biết am tường, Sự tiết lộ,
Sự
phát hiện, Điều phát hiện, Sự chiếu sáng, Sự soi sáng, Thiên khải,
Sự
giải thoát khỏi mối phiền não, Sự giác ngộ của một vị Phật.
Bodhi
phiên âm theo Hán Việt là Bồ đề. Bồ đề dùng để chỉ trạng thái cho người tu chứng
được bốn cấp Thánh đạo (Phạn ngữ. āryamārga) bằng cách hành trì 37 Bồ đề phần và
Tứ diệu đế.
Người
giác ngộ hoàn toàn trong lịch sử là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng là người sáng
lập ra
đạo
Phật hay đạo giác ngộ. Giác ngộ ( 覺悟
) là thuật ngữ dùng để chỉ sự hiểu biết được cái nhất thể của khách thể và chủ
thể trong thế giới nhị nguyên, và biết phải làm sao để thoát khỏi thế giới này
bằng đỉnh cao của Trí tuệ.
Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni được sinh ra như một con ngừơi, sống như một con người và
kết thúc cuộc đời như một con người, nhưng lại là con người có toàn năng, toàn
trí, toàn giác.
Ngài
luôn luôn sống trong trí tuệ thấy biết mọi sự vật hiện tượng đúng như thật, do
Ngài đã trải qua quá trình tu tập chuyển hóa thân tâm, loại bỏ phiền não tham,
sân, si chiến thắng được những dục vọng của tự thân, đưa đến phát minh trí tuệ
và chứng ngộ chân lý.
Ngài
có nói: " Chiến thắng vạn quân binh không bằng tự thắng mình, tự thắng mình mới
là một chiến công oanh liệt. "
Từ
kinh nghiệm bản thân, đức Phật thấy con người có khả năng thành đạt trí tuệ,
chứng ngộ chân lý và là chủ nhân của chính mình, hoàn toàn không phụ thuộc vào
ân huệ của một quyền năng siêu nhiên nào bên ngoài. Chính nơi con người tiềm ẩn
một năng lực phát triển vô hạn, đó là nguồn sống bao la của vũ trụ, sở dĩ chưa
trực nhận và khai triển được vì còn bị vô minh che khuất.
Vào
thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện tại Ấn Độ. Các đạo sĩ thường bàn luận
về câu hỏi: Thế nào là một vị Phật? Ai là người giác ngộ? Một hôm, có một vị
đạo sĩ già, tên Brahmayu, nghe tin có Ngài ẩn sĩ Cồ Đàm là một vị Phật, vừa du
hành đến thị trấn của ông ta, nên ông quyết định đến thăm Ngài (Trích Trung Bộ,
kinh 91).
Vị
đạo sĩ Brahmayu nói : " Kính thưa Ngài Cồ Đàm, tôi có vài thắc mắc muốn hỏi
Ngài ".
Đức
Phật mời ông nêu ra những thắc mắc trong lòng.
Vị
đạo sĩ nêu ra các câu hỏi qua một bài kệ bốn câu, đại ý chính là :
Làm
thế nào để được gọi là Phật, một Bậc Giác ngộ?
Đức
Phật trả lời qua bốn câu kệ như sau:
"
Những gì cần biết rõ, Ta đã biết rõ.
Những
gì cần từ bỏ, Ta đã từ bỏ.
Những
gì cần tu tập. Ta đã tu tập.
Do
vậy, này Vị đạo sĩ, Ta là Phật ".
Nếu
ngày nào đó có người nào hỏi: " Bạn quy y Tam bảo chính yếu là để làm gì? Bạn
giữ giới để làm gì? Bạn hành thiền để làm gì? " thì câu trả lời của Đức Phật ở
trên sẽ giúp bạn là : " Để biết rõ những gì cần hiểu rõ. Để loại bỏ những gì cần
phải bỏ. Để tập tu những gì cần tu tập ".
TS.Huệ Dân