Âm lực
Trong cuộc sống thường ngày, mấy ai để ý những chấn động lực quanh ta và trong ta. Từ đại dương mênh mang đến rừng núi bạt ngàn; Từ trao đổi tâm sự của con người đến tình bạn của loài vật; Từ thiên hà, ngân hà vũ trụ đến những hoạt động của từng tế bào sinh vật; từ không gian bao la đến địa tầng quả đất…không lúc nào âm thanh ngơi nghỉ. Chúng là nguồn sống và sự tồn tại của muôn loài. Ở một góc độ minh triết, âm lưu vũ trụ và âm lưu nội thể của từng sinh vật là một âm lực hằng hữu, là nguyên tố vật chất dấu mặt. Có bao nhiêu dạng thể trên mặt đất, trong không gian là có bấy nhiêu âm giaikhác nhau tồn tại. Chúng không phải là một dạng thể vô cơ, chúng không là hiện tượng vật lý thuần túy. Linh hồn sự sống muôn loài nằm trong chúng, chúng là sự sống của muôn loài!
Âm ngữ đại dương; vô lượng thời gian trôi qua, đại dương có mặt trước khi con người có mặt, vũ trụ có mặt trước khi đại dương ra đời; cứ như thế mà từng đêm giá rét, đại dương thì thầm với gió, những ngày nắng cháy khô cằn, cũng chỉ có gió tâm sự cùng đại dương; nguồn sống là đó và cũng bắt đầu từ đó.
Triết Ấn xa xưa, có những học phái quan niệm lửa là nguồn gốc sự sống thì cũng có phái bảo nước là nguồn gốc của muôn loài; nhưng không ai hiểu được tiếng nói của lửa trong cơn thịnh nộ, tiếng âm ỉ của nước lúc biển cả lặng yên. Ở một góc độ chuyên biệt, triết lý về cuộc sống khởi nguồn từ sắc màu đơn điệu. Cuộc sống vô vàn sắc tướng đã phát sanh vô vàn triết lý với vô vàn góc độ tầm nhìn khác nhau. Tạm cắt những góc độ muôn màu khác nhau, hãy lắng nghe tiếng nói đại dương mà con người là một thành phần trong vô vàn nhịp sống đang tồn tại.
Chúng ta quên rằng, đại dương tuy mênh mang nhưng đại dương vẫn có tiếng nói hằng hữu, đó là âm vang của giao tác từ vũ trụ, từ giông bão, từ gió và nắng, từ thủy tộc giao hòa, để rồi, giữa khuya lữ khách ngắm trăng, lặng nghe biển rì rào tâm sự, trãi rộng lòng người mà cảm nghiệm âm lực cùng đại dương!
Khoa học có những bước tiến khá sớm để hiểu rằng biển âm thanh tràn ngập khắp đại dương; cũng như vũ trụ, không gian tràn ngập sóng âm mà có những đêm khuya, trên phương tiện máy móc, nhà khoa học lắng nghe vô vàn tín hiệu, những tín hiệu do con người bắn đi vào vũ trụ mong có sự phản hồi, rồi cũng tiếp nhận được những âm điệu tuồng như vô nghĩa, có lúc trùng lặp, có lúc tiết tấu âm điệu dường như muốn gửi gấm tâm sự với con người, để rồi, cái hiểu hạn chế của con người dù là khoa học, cũng chỉ đối diện với bức tường bao la của vũ trụ ngăn cản sự hiểu biết giữa thiên nhiên và nhân loại.
Trở về với lòng biển cả, ngành hải dương học, ký âm học, tìm hiểu ngôn ngữ của các loài thủy tộc, trong đó, những sinh vật có vú, tầm trí tuệ cao hơn, có nhận định nhiều hơn bằng giác quan siêu âm một cách kinh ngạc. ví dụ, cá heo mõm trắng phát tín hiệu siêu âm định vị ở tần số 150.000 Hertzs. Cá voi Pseudorca biết hát và huýt gió và còn biết khóc để định vị khi lạc bầy. Người ta còn ghi âm được tiếng hát của cá heo Đại Tây Dương. Đừng tưởng rằng âm tiết của động vật đại dương đơn điệu. Kỷ sư âm học Mark Fischer đã phát minh ra những âm cụ ghi nhận âm thanh của các lòai cá, vì thế mà nghe được tiếng hát của cá voi, cá heo thật hay. Đặc biệt tiếng khóc của cá voi lưng gù khi lạc bạn với tần số thật thấp. Tâm thức tiến bộ của loài cá voi, cá heo, chúng biết xử dụng tiếng vang để định vị thay vì dùng thị lực đã bị hạn chế ở độ sâu của đại dương. Chúng phát ra âm vang để định vị đối tượng, vật cản từ xa, còn phân biệt được vật cản cứng, mềm và hình dạng của một đối thủ. Tiến sĩ Vincent Janik thuộc phòng động vật có vú biển của đại học St Andrew của Mỹ đã phát hiện loài cá heo mũi khoằm chúng gọi nhau bằng tên như con người vậy.
Khác với cá voi, cá heo tạo âm thanh bằng tiếng động của không khí trong đầu chuyển theo tần sóng về phía trước, các loài giáp xác sử dụng vỏ cứng để tạo âm thanh thì các loài da mềm tạo âm thanh bằng sự chuyển động của cơ thể. Hầu hết, âm thanh là phương tiên để các loài thủy tộc hiểu nhau, liên lạc với nhau. Trong đại dương có vô vàn động vật thì có vô vàn âm tiết khác nhau tạo thành một âm thanh nền. Thêm vào đó, giao động của biển, ma sát với gió, tác động của mưa, sấm sét, sự chuyển động địa tầng, núi lửa và khí lưu hòa thanh bản nhạc thiên nhiên kỳ vĩ.
Chính nhờ tạp âm giao hòa làm thành nền cho một âm lực thiên thu của biển. Âm từ vô biên muôn thưở, ngày nay bị khoa học tiến bộ can thiệp quá sâu, tác hưởng đến các sinh vật thủy tộc, làm suy giảm giòng tộc của các loài, vì thế mà có hàng loạt cá voi, cá heo bỏ mạng giạt trôi vào bờ, như năm 2002, hàng loạt cá voi bị mắc cạn ở vùng biển Canaries vì bị xuất huyết não và nội tạng bị tổn thương. Hàng triệu loại cá nổi trôi trên mặt nước như tấm thảm làm ô nhiễm môi sinh…không chỉ là hậu quả của dầu khí, của chất thải công nghiệp, hoạt động tàu thuyền chiến hạm, thử nghiệm vũ khí hóa học mà quan trọng nhất là sóng âm của những nhà khoa học mần mò dò tìm hiệu quả của tác dụng siêu âm, làm chấn thương não bộ và cơ năng sinh lý của những loài thủy tộc. Do vậy, môi trường âm thanh từ lòng biển có thêm những âm thanh cơ giới,
Âm thanh vật lý là loại mà âm lưu sinh học không mong muốn. Tùy mỗi loại âm thanh khác nhau có ảnh hưởng từng loại động vật biển khác nhau. Từ những tạp âm đó đã làm nên những kỳ tích của khoa học, tạo thêm kỳ tích tổn hại môi sinh, nước nóng băng tan và các loài cá quý hiếm, mất dần đất sống, mất khả năng định vị, hoặc bị tuyệt chủng, đó là dạng phản ứng sinh lý mà loài người gọi là stress.
Định vị âm thanh ( sonar), khai thác dầu khi, vận chuyển tàu biển, thử nghiệm vũ khí…là những nguyên nhân đe dọa mạng sống của loài cá heo, cá voi, vì chúng sống, tìm mồi, tránh tai nạn, liên lạc nhau bằng sóng âm thính giác. Tiện nghi khoa học ngày nay đã làm xáo trộn cơ năng sinh lý của chúng, đưa chúng vào thế tự hủy.
Tính tương tác
Trên mặt đất cũng như trong không gian, vô số sóng âm, tin hiệu sóng từ, do môi trường thiên nhiên tạo tác, cọng thêm sóng dẫn do con người sáng tạo, tuy là mạng lưới chằng chịt, nhưng mỗi tần số có tầng sóng riêng biệt nên khó bị nhiễu âm. Những sóng âm tai người nghe được vào lúc khuya thanh vắng như tiếng côn trùng, tiếng ve là những âm thanh nền ít ai lưu ý. Đó là những âm thanh ở trong đồng bằng, rừng núi. Ra bãi biển, ta lại nghe tiếng rì rào của sóng; Nếu bịt tại hoặc dùng võ ốc áp vào ai, ta chỉ nghe tiếng hải triều; cũng động tác đó, ta vào phòng kín thì âm thanh vi vu như ruồi muỗi, hoặc dùng ly thủy tinh, bình thủy đựng nước nóng, áp vào tai, ta nghe tiếng o o càng lúc càng lớn đến độ khó chịu. Ở thành thị, tuy bịt kín tai ở trong phòng vắng, vẫn nghe tiếng máy nổ, tiếng xe, mọi âm thanh thường nhật. Tại sao???
Tùy từng môi trường, do cộng hưởng âm lực tại chỗ tác động vào tần số não bộ mà âm thanh tồn tại đó xuất hiện trong màng nhỉ cho dù tai bịt kín. Trong không gian không có sóng âm, tiếng o o xuất hiện, vì không bị tạp âm nào bên ngoài tác động. Một thử nghiệm khoa học, Steven Orfield cho biết, tại căn phòng cách âm tuyệt đối ở South Minneapolis nước Mỹ, dùng để đo lường chất lượng các sản phẩm kỷ nghệ, ông ta thách thức bất cứ ai có thể ngồi lâu trong căn phòng nầy, nó yên ắng một cách lạ thường, người ta chỉ còn nghe được tiếng nhịp đập con tim hay hơi thở của chính mình. Một phóng viên chỉ ngồi lâu nhất được 45 phút trong đó. Khi vào đó, không bao lâu con người sẽ mất phương hướng do bị cách ly âm thanh, như thế, chứng tỏ ngoài ánh sáng tự nhiên, mọi sinh vật định hướng cho sinh hoạt nhờ âm thanh. Theo Guiness, đây là nơi yên tĩnh nhất thế giới.
Từ đây, ta có thể hiểu tính cộng hưởng âm lực trong vũ tru và trên mặt đất. Trong y khoa có danh từ gọi là “tự kỷ”, “trầm cảm” hoặc “thần kinh phân liệt” để ám chỉ cho những người không bình thường. Theo bác sĩ kết luận, cho đây là hậu quả của việc chấn thương tâm lý như: thất vọng, trượt thi, căng thẳng trong gia đình và cuộc sống bị thất bại, bất mãn…đã tạo cho võ não thiếu chất truyền dẫn thần kinh serotonin, bệnh nặng sẽ đưa đến “ảo thanh”, nghĩa là trong tai luôn nghe những âm thanh lạ và xúi dục hành động lệch lạc đối với tự thân hoặc làm tổn hại kẻ khác. Nếu tâm thần phân liệt đưa đến hậu quả ảo thanh thì sao không có ảo thanh tốt đẹp hơn? Cũng không hiếm trường hợp một người bình thường, khỏe mạnh, có cuộc sống ổn định, không có tiền sử thần kinh, thế mà vẫn bị ảo thanh quấy nhiễu xúi giục bạo lực.
Như đã biết, hạ âm và siêu âm không chỉ lầ mức độ âm thanh ngoài ngưỡng tai của chúng ta, nó còn hàm dưỡng tính chất tiêu cực và tích cực. Ví dụ: Một chuyên gia công nghệ thông tin người Anh tên Vic Tandy làm trong phòng thí nghiệm Đại học Coventry, bỏ ra 5 năm để quan sát các hiện tượng ma trong những lâu đài hoang phế, ông ta kết luận:
"Những bóng ma ở đất nước này có nhiều lý do để đi dọc theo các hành lang và tháp canh của những lâu đài và biệt thự cổ vì gió biển mạnh thổi nhanh trên khắp các hòn đảo nước Anh", Tandy nói. "Những cơn gió đã tạo ra sóng âm ở một dải tần số đặc biệt, mà cho đến gần đây các nhà nghiên cứu vẫn không ghi nhận được. Người ta thường nhìn ra hiện tượng được tạo bởi những sóng âm này là những con ma".
Thanh kiếm ông ta treo lơ lững trong phòng tự nó chuyển động, hạ thanh kiếm xuống, tự nhiên một tiếng động tràn ngập căn phòng; ông ta kiểm tra tất cả máy móc trong phòng, tắt bộ thông gió của máy điều hòa, thì âm thanh biến mất. Đây là tần số của sóng hạ âm. Sóng hạ âm trong phòng đo được trong phòng thí nghiệm có tần số 18,98 Hz, tương đương tần số chuyển động của nhãn cầu con người. Và ông ta nói:
"Không phải là ngẫu nhiên mà các bóng ma thường được nhìn thấy đi dọc theo hành lang khi gió thổi mạnh trên các bức tường", nhà nghiên cứu dẫn chứng cho giả thuyết của mình.
Hạ âm là tần số thấp mang âm tính tiêu cực. siêu âm là tần số cao mang dương tính tích cực, khi sóng võ não ở tần số hạ âm, luôn tương thích với âm tính tiêu cực, thường có ảo giác, nhất là bộ phận nghe tiếp nhận sóng âm tiêu cực, gọi là ảo thanh. Phần thị giác luôn giao tiếp sóng âm tiêu cực gọi là ảo giác. Vì nhãn thức và nhĩ thức tương thích với sóng hạ âm nên phát sanh ra nhà ngoại cảm. Đó là hiện tượng cộng hưởng tần số của sóng âm. Người có khả năng ngoại cảm hay bị nhiễm xạ tần số hạ âm luôn nghe ảo thanh, luôn thấy thế giới vô hình, nếu không tự mình giải cứu khỏi môi trường đó, hoặc không được một bậc thầy tâm linh có nội lực cao cứu vãn, lâu ngày trở thành điên loạn, một loại điên loạn thần kinh tâm lý chứ không phải do tai nạn vật lý.
Hạ âm trên biển cả cũng từng tạo ảo giác cho người đi biển, họ nghe tiếng kêu la than khóc hay những hình ảnh chập chờn ma quái. Do tần số hạ âm phủ trùm mặt biển giao tác với mật độ ion trong không khí mà có.
Trong phòng thí nghiệm của giáo sư Masaru Emoto, Nhật Bản, chuyên gia nghiên cứu về tác động ngôn ngữ đối với con người và môi sinh đã dẫn chứng âm lực tác động lên mọi vật do xung động với từ trường tạo ra lực. Đã là xung lực thì tạo ra những bước sóng khác nhau mà từ đó, khoa học thiết lập điện não đồ, điện tâm đồ. Trong phòng thí nghiệm, giáo sư truyền âm lực vào ly nước đông lạnh bằng lời chúc lành tốt đẹp, các tinh thể có cấu trúc đẹp và sáng, ngược lại , một ly nước khác giáo sư truyền vào một âm lực tiêu cực, cấu trúc tinh thể nước sẽ dị dạng và xấu.
Nhưng độc đáo hơn cả là một thí nghiệm khác của GS Emoto trên những hạt cơm, được đựng trong 3 chiếc chén như nhau. Emoto đã tập trung hết tư tưởng và nói với chén cơm thứ nhất “Cảm ơn bạn”, với chén thứ hai “Đồ ngu” và không nói gì với chén thứ ba. Ba ngày sau, kết quả: chén thứ nhất lên men nhưng có mùi thơm dễ chịu; chén thứ hai thì cơm bị mốc đen và có mùi thiu khó chịu; còn chén thứ ba cơm bị mốc xám và có mùi chua.
Chưa dừng lại thí nghiệm ở đây, sau đó Emoto đem cả 3 chén cơm đến một lớp ở trường tiểu học, nhờ các em học sinh lần lượt tập trung ý chí nhìn vào từng chén cơm và nói lời “Cảm ơn”. Kết quả bất ngờ: không lâu sau đó, cả ba chén cơm đều chuyển thành mùi dễ chịu, kể cả chén cơm thiu mốc đen do bị nóilà “Đồ ngu”!
Tương tự, GS Emoto cũng thí nghiệm đối với thực vật, cụ thể là cây hướng dương. Ngay trước lúc gieo hạt, ông phân hạt giống thành hai túi. Một túi có nói và viết hai chữ “Cảm ơn”, còn túi kia là hai chữ “Đồ ngu”. Trong giai đoạn hạt nảy mầm và thành cây cũng vậy, hằng ngày khi chăm sóc, mỗi nhóm đều được ông tiếp tục nói lời “Cảm ơn” hoặc “Đồ ngu” tương ứng. Kết quả: nhóm được nói lời “Cảm ơn” cành lá phát triển xanh tốt, còn nhóm “Đồ ngu”thì cành lá quăn queo thưa thớt.
Trong tác phẩm nói về sự minh triết trong cuộc sống, tác giả Darshani Deane kể lại đứa bé ba tuổi bú sữa mẹ đã chết sau khi cha mẹ cải lộn với lời lẽ cay độc, cơ thể thâm tím, khám nghiệm cho biết bị nhiễm độc sữa do máu tiết ra. Đây là hậu quả do lời lẽ cay độc giữa hai vợ chồng tiết ra độc tố trong cơ thể người mẹ.
Tính cộng hưởng tần số hạ âm (tâm lý) như thế thì việc cộng hưởng siêu âm (tâm lý) cũng mang tính tích cực.
Một năng lượng khác cũng từ ngôn ngữ mang tính tích cực, giáo sư Shinichiro Terayama, giám đốc hội y học Nhất Thể Nhật Bản, bị ung thư thận, tự chữa bằng năng lực siêu âm tự thân, hàng ngày ông nói lời cám ơn với cuộc sống, mọi vật, vũ trụ và con người, quả nhiên, một thời gian sau với tinh thần lạc quan tích cực, giáo sư đã khỏi bệnh. Giáo sư kết luận: Từ con người khỏe mạnh đến tế bào ung thư hư hoại cũng có thể được chuyển hóa hồi sinh tốt lành nếu chúng ta lưu tâm chăm sóc bằng những tình cảm và lời nói chân thành, lời lẽ dịu dàng và lòng biết ơn chân thành.
Tuy hạ âm nằm ngoài ngưỡng nghe của lỗ tai, nhưng cơ thể con người vẫn cảm nhận và bị tác động bởi hạ âm; ví dụ ở trên mạch nước ngầm, trên các phần nghĩa địa, tần số từ 6 Hz trở xuống gây tổn hại sức khỏe, buồn phiền, mệt mõi, trầm cảm. và một vài cơ phận tương thích với tần số hạ âm sẽ đưa đến hủy hoại cơ phận đó.
Như vậy, âm lực là một năng lượng được tác động bởi ý thức dẫn sóng tồn tại trong không gian, đó là dạng năng lượng tâm lý. Năng lượng vật chất như sông biển đất đá núi đồi được tích tụ khí âm dương là loại năng lượng vật lý hàm tàng một trường lực vô cơ. Những vùng đất thâm u không có con người xâm nhập, những nghĩa địa lâu năm đều tích tụ năng lượng hạ âm, dễ phát sanh âm khí, đó là dạng sóng âm tiêu cực, có thể tác động đến sức khỏe người sống nếu thâm nhập lâu dài. Địa sinh học không chỉ là môn học áp dụng cho kiến trúc, còn là bộ môn đi sâu vào cảm xạ học để nắm bắt được những âm khí trên cuộc đất mà ngôn từ khoa học gọi là ion hóa trên địa tầng mặt đất. Thường các hầm hố chứa rác, các nghĩa địa đã được bốc dỡ đều tích tụ trường lực xấu có hại sức khỏe cho người sống trên đó.Trường lực tác động tích cực hoặc tiêu cực đến nhịp điệu sinh học của con người và các động vật.
Âm lực tiêu cực: Từ lâu lắm, khi con người còn hoang sơ, một vài người đã có khả năng giao tiếp với cỏi vô hình, có những hành tung trị bệnh, yểm bùa, làm một vài việc mà người bình thường không làm được; không riêng các nước phương Đông, cận Đông mà ngay cả Tây Phương cũng thường xuất hiện dạng âm lực tiêu cực mà thời Trung cổ bị ghép là phù thủy. Thật ra trình độ dân trí lúc bấy giờ còn thấp, cuộc sống gần với thiên nhiên rừng núi, biển cả. âm khí phủ tràn mặt đất vì mặt bằng chưa được khai hoang quang đãng, sóng não hạ âm nhạy cảm với hạ âm môi sinh, bắt nhịp với tần số giao hưởng thấp. Mọi chuyển biến trong không gian tác động vào vỏ não, hình thành một tác lực cộng với ý tưởng dẫn dắt đương sự đến hành động mà mọi người cho là có sự hỗ trợ của Thần linh thường dùng những ẩn ngữ pháp thuật để chữa bệnh, trừ tà hoặc không chế. Ngày nay vẫn còn tồn tại, Thái, Miến, Lào, Việt, nhất là vùng cao, các thầy mo, vừa là thầy cúng, vừa là thầy pháp, sên, ém, nèm, thư, giải bùa trấn ngải…
IệnHiện nay, khoa học vẫn chưa lý giải được những hiện tượng đó. Hạ âm vật lý trong điện trường không gian, giao cảm với tầng sóng hạ âm vỏ não của người nhạy cảm, cộng với tạp niệm sẽ cảm xạ luồng sóng năng lượng sinh học, hành động được dẫn dắt bởi giao tầng hạ ý thức; Người bệnh cùng chung tần số sẽ được giao cảm và hóa giải.
Một số mật ngữ thần phù là kết quả huân tập từ nhiều thế hệ sơ khai của hạ tầng giao cảm với năng lượng ngoại biên, đúc kết, điểm khuyết gia tăng thêm những sáng tạo và kinh nghiệm làm phong phú đa dạng những hình thức huyền thuật. Ví dụ “Trường sinh học nhân điện” là biến thể của một phần nhỏ Yoga, sử dụng khai thông các đại huyệt gọi là luân xa ( chakra) đê tiếp nhận khi Tiên thiên từ vũ trụ, phục hồi sinh lực khí nội thân giúp tăng cường sức khỏe để tiến hóa tâm linh, đồng thời hóa giải bệnh tật cho những ai có duyên, do tổ sư Dashira Narada, một cao Tăng Srilanka khai sáng, nhưng ngày nay, tại Việt Nam, một số người được mở luân xa bị các vong lợi dung thâm nhập, như tại Biên Hòa Đồng Nai, một vị đã truyền các vong qua cho những học trò, trong đó có hai chị em ở Mỹ, có học vị có địa vị của một kỷ sư, thế mà bỏ công ăn việc làm, giờ chỉ còn là cái xác bị sai khiến bởi năng lượng tiêu cực.
Thầy pháp thầy bùa là những truyền nhân được kết nạp và thệ nguyện để tiềp nối con đường huyền thuật, khi xuất sư, thầy truyền cho một số lực lượng để phù trợ hành nghề, trong quá trình luyện tập. đương sự sẽ chiêu nạp thêm một số vong bất đắc kỳ tử, oan hồn không được đầu thai để gia cố âm bình hành hiệp theo sự sai khiến của thầy
Bùa Năm Ông, Lỗ Ban hay bất cứ huyền thuật nào cũng đều có một quy luật đạo đức nhất định, ví dụ Lỗ Ban cấm đệ tử trọng giàu khinh hèn, không sáng mắt trước tiền của, không ngoảnh mặt với kẻ nghèo; đồng thời tuân theo một số tiêu chuẩn sinh hoạt ẩm thực.
Ngay cả linh phù là những con chữ được vẽ lên giấy cho bệnh nhân uống, thế mà tác dụng không nhỏ. Bệnh nhân bị phần âm của những linh phù khống chế, lâu ngày bị ách tắt thần kinh, sẽ không bình thường.
Milarepa đã dùng huyền thuật sát hại nhiều người và mủa màng tại Tây Tạng cũng bằng vào âm lực.
Mọi dạng thức huyền thuật không có mục đích giải thoát đều là tần số hạ âm do lực lượng ngoại biên đen kết hợp với đương cơ tương thich tầng sóng vỏ não; Tất cả những dạng hạ âm tiêu cực, tuy khởi xướng giúp đời, nhưng kèm theo tác hại không ít, vì chúng lẩn quẩn trong vòng nhân quả tử sanh.
Âm lực tích cực: Cũng như hạ âm vật lý khác với hạ âm sinh học và hạ âm tâm lý, siêu âm vật lý cũng khác hẳn với siêu âm tâm lý và siêu âm sinh học.
Hạ âm vật lý và siêu âm vật lý là mặt nổi của âm thanh, ngược lại hạ âm tâm lý, hạ âm sinh học và siêu âm sinh học, siêu âm tâm lý là một hợp thể diệu dụng của tâm sinh lý có một năng lực vô hạn về phương diện tiêu cực cũng như tích cực.
Phần trên đã nói qua về âm lực tiêu cực trong cuộc sống, Vậy âm lực tích cực đối với hệ phái tâm linh đem lại hiệu quả nào?
Mật tông là tông phái hàm tàng nhiều mật ngữ mà hiệu quả diệu dụng không thể hiểu dưới cặp mắt khoa học duy vật hiện nay. Mật tông là cách nói chung cho những trường phái về mật ngữ. Bởi lẽ chính tông và tà phái, tuy có những ngôn hành tác ý giống nhau về ngoại tác, nhưng mục đích và tác dụng có hai chiều trái nghịch nhau. Thần chú có khả năng tạo một tần số tương thích tầng sóng của vỏ não làm thành một dãi vi sóng câu thông với năng lượng vũ trụ, đưa hành giả hòa nhập vào ánh sáng tự tánh.
Nói đến mật tông, lấy Tây Tạng làm tiêu biểu cho một trường phái được truyền thừa qua nhiều thế kỷ, vẫn còn giữ được sắc thái đặc thù và hiệu quả sâu sắc mà các nước phương Tây đang thâm nhập tìm hiểu và trân trọng.
Mật ngữ còn gọi là mantra, là những âm tiết vô nghĩa nhưng hữu lực, có một tác động hơn cả cơ năng vật lý. Tổ khai sáng mật ngữ là một chuyên gia tâm linh có trình độ tu chứng, thiết kế phầm mềm vô vi tên tầng sóng siêu thức; Những âm tiết của mật ngữ là những tín hiệu mà hành giả chỉ cần chú tâm dụng khí để phát âm đúng tần số rung động của vi sóng thì lực tác hưởng sẽ đến. Có những Thần chú chỉ cần lúc ngồi thiền, lắng nghe thật sâu âm ba của mật ngữ thì hành giả tự hội nhập vào ánh sáng của chơn thức. Trong buổi tu tập cộng đồng, sóng não mọi người cùng hòa nhập với tần số mật âm đồng điệu, lực lượng cộng tu sẽ nâng tâm thức đại chúng lên một trạng thái hay gọi là cảnh giới siêu thức. Như nhà thôi miên dùng nội lực tâm thức đưa con bệnh đi vào quá khứ để hiểu được nguyên nhân bệnh tật hiện tại. Tác động cộng hưởng đó đòi hỏi cùng tầng sóng và tần số đồng pha.
Âm, khí và lực là ba yêu tố quan trọng trong việc trì chú. Âm thanh vật lý bị giới hạn trong môi trường và vật cản, nhưng âm lực tâm lý hay gọi là lực lượng tâm linh vượt ra mọi hạn chế vật chất. Khi niệm chú là tâm ý không tán loạn vọng tưởng, ý trụ đâu là khí tụ đó, nguồn sinh lực khí nội thân lưu thông các luân xa giúp hành giả khai thông trí lực và khí lực, vì thế mà phục hồi sức khỏe, xóa tan bệnh tật. Tác động trung tâm năng lực nội thể liên kết với trung tâm năng lực ngoại biên tạo thành một loại vi sóng trong trường năng lượng vũ trụ.
Trì chú là phương cách thay thế tạp niệm để trụ tâm vào một âm lực cố định, tâm định là tuệ khai; vả lại năng lực mật ngữ là loại sóng âm khi phát ra sẽ câu thông với lực lượng ngoại biên, nâng tâm thức và trí tuệ lên tầng cao hơn. Mỗi âm lực của mỗi mật ngữ có công năng thần lực khác nhau mang một sắc thái khác nhau, cung độ khác nhau tương thích với một cơ phận nội tạng; vì thế khi xướng lên mật ngôn tạo một chấn động lực nội thể. Tựu trung có ba loại ánh sáng chính là Lam-trắng-đỏ của dòng quang tử ngoại biên câu thông với năng lượng nội thể khai mở quang năng tự tánh, luồng hỏa hầu cũng được khởi phát, máu huyết ngũ tạng đều sung mãn. Phương pháp trì chú của Mật tông là cách phối hợp giữa khí lực và âm thanh làm thành giòng hợp lưu, kích hoạt tầng sóng giao động để hấp khí, tẩy trược; Vì thế các sư Tây Tạng thường to khỏe.
Tây Tạng thường kết hợp nghi lễ với nhạc khí: chiêng-trống-tù và- linh-não bạt, là những hợp âm hỗ trợ sóng dẫn đưa mật ngôn bàng bạt khắp không gian. Khi chữa bệnh cũng vậy, xác định cơ phận có bệnh tương thích với luân xa đảm nhiệm. Tây Tạng thường dùng cường độ âm thanh và mật ngôn tương thích với luân xa đó, kích hoạt để nhịp quay của luân xa vào đúng vị trí thì cơ thể được quân bình, trược khí tiêu tan thì bệnh tật giải trừ.
Những bậc cao Tăng thâm hậu, mật ngữ không nhất thiết phải phát âm thành tiếng, các ngài quán tưởng đến Thần chú, lập tức âm thanh vang rền trong tai cùng với ánh sáng chan hòa. Hành giả tu pháp Quán âm, có thể đi đứng nằm ngồi đều lắng nghe âm thanh bên trong, ( không phải ảo thanh của âm lực tiêu cực nói trên ), khi nhuần nhuyển, âm thanh trở nên vắng lặng, sự yên tĩnh đó cũng là loại âm thanh cao cấp mà gọi là âm thanh trắng, nhà Thiền có giai thoại tiếng vỗ của một bàn tay, ám chỉ vô thanh cũng là một loại âm thanh, âm thanh tự tánh.
Vũ trụ hình thành với ba đặc tính: Ánh sáng – Âm thanh –Vật thể. Mật tông kết hợp cả ba để hình thành một pháp tu tiến đến giải thoát. Việc chữa bệnh chỉ là phương tiện chứ không phải mục đích của Phật giáo nói chung và Tây Tạng nói riêng.
Tịnh độ tông lấy câu trì niệm lục tự Di Đà cũng là dùng âm thanh đi vào ánh sáng tự tánh. Di Đà là ánh sáng vô tận, trụ tâm niệm Di Đà là trụ tâm vào quang năng tự tánh của chúng ta. “Lục tự Di Đà vô biệt niệm, trực lao đàn chỉ đáo Tây phương” tức là mức độ trụ tâm không kẻ hở, không gián đoạn, là một năng lực câu thông năng lượng ngoại biên, cũng có nghĩa tự tánh và vũ trụ là một năng lượng siêu thức do tận dụng siêu âm sinh thức có kết quả trong tích tắc.
Thiền tuy vô số pháp hành, tựu trung là sử dụng năng lượng siêu âm từ tâm thức. Tuy vô thanh nhưng cũng là loại âm thanh trắng, một âm thanh vô tướng vô tác khởi xuất từ tâm thức an trụ và quán chiếu, tạo thành năng lượng sáng, khai thông nội kinh, hỗ trợ cho các đại huyệt thông thoáng hầu phóng xuất kundalini bò dần lên bộ đầu, khai mở huệ nhãn khi tuyến Tùng được kích hoạt.
Một số tôn giáo Thần học dùng cầu nguyện và âm nhạc làm phương tiện hòa nhập cùng Thượng đế. Tuy hướng ngoại nhưng vẫn hướng thượng nên tạo ra một từ trường sáng; kết quả không trực tiếp nhanh như các pháp hành nội quán, vẫn đạt một phần năng lượng siêu âm, vì chính bản thân người cầu nguyện chưa thanh tẩy thân tâm một cách tuyệt đối như các hành giả Phật giáo và Tiên giáo. Nhưng lời cầu nguyện cho những mục đích tầm thường thì con đường hòa nhập với năng lượng vũ trụ ( hay năng lượng Thượng đế) vẫn còn xa dịu vợi.
Âm lực vũ trụ và âm lực địa tầng có một tác dụng hỗ tương. Âm lực ngoại biên dương thì âm lực địa tầng âm. Sóng từ địa tầng tốt cho sức khỏe khi nơi đó không bị những mạch nước ngầm, không bị tụ khí âm hoặc nơi giao nhau của các tia bức xạ. Phong thủy ngày nay phát triển về các loại đá có năng lượng từ trường mạnh, hóa giải các sóng âm độc hại. Các đạo sĩ, các hành giả xa xưa thường ngồi trên các tảng đá để tu luyện, năng lượng của đá có độ rung khá mạnh, hỗ trợ cho năng lượng hành giả. Vì năng lượng của đá có khả năng phân tán âm lượng để tích tụ năng lượng dương quanh khu vực đá.
Các bậc Thánh Tăng, minh triết biết sử dụng âm lực để thăng tiến tâm linh, nương ánh sáng, âm thanh và vật thể để chuyển hóa nội lực. Âm lưu nội tại luôn là sóng âm trường lực duy trì sự sống mọi loài. Quán âm là một trong vô số phương cách tu tập giải thoát.
Minh Mẫn
23/7/2012