Ngoài Dharamsala là thủ phủ của chính quyền Tây Tạng lưu vong, khắp nơi trên đất nước rộng lớn của India, các nhà sư Tây Tạng đều có mặt, nhất là tại Gaya, chùa Tây Tạng nhiều hơn bất cứ chùa của quốc gia nào trên đất Ấn. Trong năm, vào mùa hành hương, người Tây Tạng thường họp chợ bày bán các sản phẩm đa phần liên hệ đến tôn giáo hơn là vật dụng dân sự. Họ bày đủ mặt hàng màu sắc sặc sỡ, tràng hạt bằng hồng thạch, pháp phục nhà sư đến các pháp khí tộc Tạng; Hàng bày thì nhiều nhưng bán chẳng được bao nhiêu. Dân bản địa thì quá nghèo, họ theo Hindu hoặc đạo Hồi nên chẳng ai cần đến những hàng hoá như thế. Khách hành hương cũng hiếm người mua, vì những quốc gia Phật giáo không thiếu những kỷ vật như vậy. Cũng như người Ấn và Nepal, dân Tây Tạng rất kiên nhẫn, họ ngồi ngoài nằng mà không cần lều bạt, ăn ngủ tại chỗ.
Có người không tậu được sạp, kệ thì trải tấm nilon trên đất mà bày hàng.Đa phần người Tây Tạng buôn bán thật thà. Hàng năm, họ nhóm chợ trong hai tháng. Số khách nhộn nhịp trong các khu chợ đó vân là các sư Tây Tạng, tạo cho du khách có cảm giác người các quốc gia khác thưa thớt hơn. Nếu không nhờ bộ phẩm phục tu sĩ thì khó ai phân biệt được đâu là nhà sư và đâu là tín đồ, vì người dân họ tỏ ra sùng kính với niềm tin tôn giáo một cách mãnh liệt; cặp mắt luôn hướng về xa xăm, không phải cho một lãnh thổ đã bị cướp mất mà trong tâm hồn họ luôn hiện diện cỏi Tịnh vĩnh hằng! Tay họ luôn cầm tràng hạt, miệng lẩm nhẩm thần chú.
Từ ngày mồng một đến 11/01/09, các sư Tây Tạng mỗi ngày đều có chương trình sinh hoạt tại Tháp Đạo tràng. Ngài pháp vương Karmapa Chenno luân phiên thuyết giảng tại chùa Tây Tạng cách Đạo tràng vài trăm met đường chim bay, hoặc hướng dẫn cho những sinh hoạt tại bảo Tháp. Pháp vương thứ XVII tuy mới 24 tuổi, do túc duyên tiền kiếp từng là một cao Tăng, hiện đời được giáo dục theo chương trình nghiêm ngặt của Tây Tạng, nên tỏ ra chửng chạc, uyên bác. Các vị chức sắc, giáo phẩm Tây Tạng thường tái sanh theo hạnh nguyện và chủ định, khi hậu thân được kiểm chứng chính xác, được đưa vào khuôn khổ giáo dục rất nghiêm minh, chả bù lại các vị trẻ trong các chùa bình thường, phong cách họ cũng bình thường như một người bình thường mà đáng ra bốn bộ luật của một vị tập sự xuất gia cần phải học, trong đó Tứ oai nghi cần phải có.Trong những ngày này, các tu sĩ Tây Tạng đi lại trên các ngả đường như đi trẩy hội. Ngoài các chùa tộc Tạng, các sư còn sống lẫn trong các xóm cư dân bản địa, trong những căn chòi chật hẹp, thấp lè tè, kể cả các tu sĩ người Âu theo giáo phái Tây Tạng cũng quen với cái bẩn của người Ấn.
Từ ngoài khu vực Đạo tràng, hành khất người Ấn đông vô số kể. Trong đó có những trẻ em không có tay chân bẩm sinh, không có mắt hoặc tật nguyền đủ mọi dạng thức.Một người từ tâm cũng không thể nào bố thí hàng trăm người một lúc như thế. Các ông bà cụ già cũng lây lất dưới đất bẩn đầy rác và ẩm ướt. Những người khoẻ, trẻ thì bán các băng dĩa Phật giáo tuy họ không phải Phật tử. Các guest house, restaurant, các shop dịch vụ linh tinh cũng ăn theo vào những ngày này, nhưng không dịch vụ nào đạt chuẩn tối thiểu. Internet thì chập chờn, hotel thì như nhà trọ, nhà hàng chỉ có mỗi món suchi và bánh chapati; Ngay cả thị trấn Gaya phố chợ nhộn nhịp, đường sá sình lầy, nhà cửa tăm tối, đa phần nhà xây không tô; không nhà nào kiến trúc có thẩm mỹ, thì ở đây, vùng quê xa xôi, ngoài các chùa, không nhà người dân nào được tươm tất.
Tại Gaya, chính phủ không có công ty vệ sinh nên người dân thường bị bệnh “tiểu đường”, kể cả đàn bà, họ “xả nước” cá nhân một cách công khai mà khách hành hương đi lại đông đúc phải đâm ngượng, họ bảo:” đó là điều tự nhiên trời cho sinh vật nào cũng phải có!”. Có những chỗ mà du khách phải cẩn trọng kẻo dẫm phải “mìn”, thậm chí mấy chú cẩu thấy cũng chê. Chỉ riêng trong phạm vi bảo Tháp mới được giữ sạch sẽ, vì phần lớn bên trong là các sư Tây Tạng ngồi thiền, tụng kinh và lễ lạy; các du khách cũng ý thức giữ vệ sinh chung.
Sáng ngày 11/01/09, chư Tăng các nước đi khất thực để gieo duyên với quần chúng; thật ra dân bản địa không ai biết cúng dường, vì họ quá nghèo và không ai là phật tử; ngược lại chư Tăng còn phải bố thí cho họ trong dịp nầy. Thực phẩm được chuẩn bị sẳn bởi Tín đồ Tây Tạng và Phật tử nước ngoài, kính cẩn dâng vào bình bát khi hàng ngàn chư Tăng chậm rãi đi qua.
Một hình ảnh đẹp gợi nhớ lại thuở sinh tiền Đức Thế tôn và chư Tăng đi vào làng mỗi buổi sáng. Trong lúc đó, phía ngoài chợ, không quá mười người, kẻ vác trụ cờ dài, người cầm loa và kèn đồng khuyếch đại âm thanh đi sau người dẫn xe đạp chở máy ampli, phát ra những âm điệu lạ tai mà không biết là họ đọc kinh hay hát nhạc của đạo Hindu. Cư dân quá quen cảnh tượng nầy, vì mỗi tháng có hàng chục cuộc lễ như vậy, du khách cứ ngẩn ngơ đứng nhìn những sinh hoạt lạ lẫm. Xa hơn là tiếng phát thanh của đạo Hồi những đoạn kinh tụng ồm oàm đơn điệu hai lần mỗi ngày.
6 giờ chiều ngày 11/01/09, các đoàn Tăng sĩ những quốc gia có mặt tại Ấn, đều vân tập về Bảo Tháp theo lời mời của Ban Tổ chức để hiệp tâm trì tụng cầu nguyện cho thế giối hoà bình, nhân loại an lạc.Chư Tăng Tây Tạng tỏa ra các ngả đường để về nơi cư trú đông hơn cả cư dân bản địa quanh Đạo tràng, cảnh trí nhộn nhã như trẩy hội, nhưng phía trong Bảo tháp, vẫn còn khoản 20 ngàn người đủ mọi quốc gia, sắc tộc, ngồi vây quanh tường thành, hoặc đứng nghiêm trang hướng về cội Bồ Đề, nơi mà hàng dãy bàn bày biện tràng phang, bài vị, hoa quả dâng lễ.Âm thanh và ánh sáng đều do người Tây Tạng trần thiết. Vô số bóng đèn nhiều màu bằng trái ping-pong trang hoàng khắp khu vực, những dãy đèn hoa sen treo dọc hai bên tháp, tạo cho không gian mang vẻ huyền nhiệm. Từ bốn góc ngoài tường thành, đèn pha cao áp hường về ngọn tháp làm toả sáng nét hùng vĩ của bảo Tháp giữa bầu trời đen thẳm mênh mông.Các sư Tây Tạng tỏ ra điêu luyện trong việc tổ chức, vừa hiện đại, vừa thẩm mỹ nghệ thuật khiến cho người tham dự thích thú, khen ngợi. Các lối vào Tháp và khu vực hành lễ, thanh niên nam nữ trang phục bộ dạ đen để hướng dẫn và kiểm soát, họ tỏ ra lịch thiệp, nhanh nhẹn và hiền lành dễ thương. Người Tây Tạng trông khác hẳn người bản xứ, họ na ná người Tàu và Việt, họ thông minh và điềm đạm.
Tuy đông đúc, nhưng rất trật tự, những ai đến đây đều với tâm thành kính, nên Ban tổ chức không mấy vất vả. Ngay cổng phía Bắc tường thành hướng về cội cổ thụ Bồ Đề, quần chúng ngồi dọc hai bên, ở giữa giành riêng cho chư Tăng lên tụng tán. Đoàn Phật giáo Srilanka đến Myanmar và Thái Lan xướng tụng, hình như mọi người quen âm điệu của Phật giáo các quốc gia nầy, đến khi chư Tăng Korea lên tiếp chương trình, mọi người đột ngột chú tâm, mỗi đoàn chỉ được hơn 5 phút, kế đến các thầy cô Việt Nam, những vị nầy đang theo học tại Dheli, trong đó có thầy Tâm Hoà, từng hướng dẫn chương trình Phật Pháp nhiệm mầu của chùa Hoằng Pháp, tán Phật và tụng Bát Nhã Tâm kinh, tiếng mõ và lắc linh cùng hoà với âm thanh của chiếc khánh đồng càng làm cho thính chúng ngẩn ngơ bởi âm điệu đặc biệt của nghi lễ Phật giáo Việt Nam, một thời mà giáo sư Trần văn Khê từng đưa lên trình diễn quốc tế; Nếu có thời gian rộng hơn, nghi tán rơi của Huế, chắc chắn mọi người sẽ chìm vào không gian trầm bổng của loại nhạc cung đình thời vua chúa xa xưa, lễ nhạc vừa chấm dứt, tất cả như tiếc nuối chưa thoa mãn.
Sau các đoàn Phật giáo quốc tế thực hiện nghi lễ của mình, Tây Tạng phân phát mỗi vị sư một túi xách trong đó có kinh sách và cây đèn pin; Tất cả tề tựu lại, tập thể đèn pin sáng cả một góc tháp như nhũng chòm sao trong thái dương hệ. Đáng ra, họ xử dụng đèn cầy theo truyền thống thắp nến, nhưng vì bảo vệ gốc đại cổ thụ nên nhiều năm qua khu vực gần Bồ Đề không dùng lửa nhiệt. Đồng hiệp tâm cầu nguyện với sự chứng minh của Ngài Pháp vương Karmapa, ánh sáng và rừng người chìm trong bầu không gian tâm linh tịch lặng giữa màn đêm.Tiếng nguyện cầu xưng tán Tam bảo râm rang như âm vang tiếng gầm của chúa sơn lâm chốn rừng già. Cội Bồ đề từng chứng kiến hào quang đại ngộ của đức Thế tôn năm xưa, giờ đây chứng kiến thêm hàng con cháu của Phật đủ mọi chủng tộc về hiệp lực phát lên tâm nguyện hướng về thế giới, nhân loại bằng tâm từ, năng lượng đó cũng làm cho cội đại cổ thụ thêm phần sung túc.
Bên ngoài khu vực Tháp, cảnh sát Ấn trang bị bằng cây gậy, mục đích không để trẻ con làm mất trật tự, thật ra an ninh các nước có súng mà vẫn không tránh khỏi bạo động, chứng tỏ nơi đây, với tinh thần tôn giáo của Ân, nói lên tính hoà bình của họ. Giòng người ra về cũng có mà đổ vào khu vực tháp suốt đêm cũng nhiều. Suốt mùa hành hương, khu vực Đạo tràng không lúc nào vắng khách, càng về đêm, khách hành hương và các sư Tây Tạng càng đi nhiễu tháp, lễ bái, thiền tọa và tụng niệm càng nhiệt thành để khắc phục cái lạnh thâu canh cũng như thể hiện lòng sùng kính đối với đấng Thiên nhân sư từng thành đạt nơi đây.
Cuộc lễ chấm dứt mà chưa ai muốn rời khỏi Tháp. Tiếng chim quạ và nhiều chim lạ vẫn chưa muốn ngủ, còn bay quanh khu vực nhiều ánh sáng réo gọi hát mừng. Những con chó hoang nằm sát người hành khất để tìm hơi ấm. Sương đẫm ướt cây lá và đường đi. Những người dân không nhà co ro trong manh vải cáu bẩn ngồi tựa vào tường tìm giấc ngủ an bình. Tuy cuộc sống của cư dân bản địa có nghèo khó, nhưng họ vẫn vui vẻ với một tâm hồn thánh thiện. Xã hội India có nhiều bất cập về vật chất nhưng họ sung mãn nội tâm, vì thế, họ không bị chao đảo như cái chao đảo của xã hội công nghiệp một khi kinh tế bị khủng hoảng. Dẫu sao, đất Phật vẫn cho du khách nhiều suy nghĩ và một bài học giá trị của tâm linh, đó là yếu tố đem lại hoà bình cho nhân loại.
MINH MẪN
12/01/09