Xưa nay, trong tâm tưởng của nhiều người, nhất là cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, ông Tà, ông Địa là những vị thần luôn gần gũi, thân thiện và mang lại phúc lành cho họ. Do đó, mỗi khi gặp chuyện rủi ro hoặc làm ăn sa sút họ thường van vái: “Xin ông Tà, ông Địa hộ độ cho tôi tai qua nạn khỏi”.
Xưa nay, trong tâm tưởng của nhiều người, nhất là cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, ông Tà, ông Địa là những vị thần luôn gần gũi, thân thiện và mang lại phúc lành cho họ. Do đó, mỗi khi gặp chuyện rủi ro hoặc làm ăn sa sút họ thường van vái: “Xin ông Tà, ông Địa hộ độ cho tôi tai qua nạn khỏi”.
Ông Tà là ai, ông từ đâu đến và quyền hành ra sao mà được dân gian kính nể và tôn sùng đến thế?
Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu, ông Tà có nguồn gốc từ tín ngưỡng của người Khmer và được người Việt thờ ở khắp lục tỉnh Nam kỳ. Đó là vị thần mang tên Neak Ta, có quyền năng cai quản trong phạm vi phum sóc hoặc một khu vực rộng lớn hơn nên bà con ai nấy đều tôn kính. Nhiều người khi đi ngang qua miếu thờ ông Tà đều dở nón, lột khăn, kính cẩn nghiêng mình.
|
Ông Tà được thờ trang trọng trên đỉnh núi Ba Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang
|
Xưa nay, mỗi dân tộc đều có một sắc thái văn hóa riêng, nhưng trong quá trình cộng cư thường có sự giao thoa văn hóa. Nhiều phong tục, tập quán và tín ngưỡng thường có sự tác động qua lại và chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Điển hình như tục thờ ông Địa và thần Tài của người Việt hiện nay là xuất phát từ Trung Hoa hoặc ông Tà là của người Khmer.
“Neak” có nghĩa là người nói chung, còn “Ta” là đàn ông đứng tuổi. Hai chữ này họp lại có nghĩa là thần linh*. Nếu như người Khmer thờ các vị thần sông (Neak Ta Prek), thần núi (Neak Ta Phnom), thần rừng (Neak Ta Prey)… thì người Việt và người Hoa thờ ông Địa và thần Tài.
Với đức tin “Hữu thành tắc hữu thần”, thời cổ xưa ông cha ta đã sùng bái nhiều vị thần, trong nhà thì “Sống ở đâu, thổ công ở đó”, ngoài đồng cũng cần một vị thần cai quản ruộng đất, hoa màu là ông Tà. Vì thế, hình tượng ông Tà đã ăn sâu vào tâm thức của nhiều người, nhất là cư dân miệt vườn sông nước.
Khoảng trước năm 1975, ở các vùng quê ngoại thành phố Cần Thơ, hầu như nhà nào cũng có bàn thờ ông Thiên (Thông thiên) và miếu thờ Thổ thần. Ngoài ra, ở một số nơi như đầu vàm, cuối rạch, giữa đồng hoặc bên cạnh gốc đa, gốc dừa, doi đất còn có miếu thờ ông Tà. Miếu chỉ rộng chừng một mét vuông, đủ chất vài cục đá và chiếc lư hương. Có khi ông Tà nằm ngoài mưa gió hoặc thu mình dưới những bọng cây. Hàng năm, bà con đều rước thầy về cúng Thổ thần và bao giờ cũng dành riêng cho ông Tà một mâm rượu thịt. Theo lệ, khi cúng ông Tà, chủ nhà phải ăn trước mỗi món một chút để chứng tỏ thức ăn đó không độc.
Chính những viên đá hình tròn, nhẵn nhụi đặt trong miếu, trên gò đất cao hoặc bên cạnh gốc cây là hình tượng tiêu biểu cho ông Tà. Viên đá lớn được gọi là thần, còn mấy viên nhỏ tượng trưng cho ma quỷ theo hầu.
|
Ông Tà được thờ bên cạnh bàn thờ Thông thiên trước nhà
|
Có rất nhiều giai thoại thật huyền bí và hấp dẫn về lai lịch và thành tích của ông Tà. Người ta đồn rằng ông Tà được thờ trên bọng cây, nếu đứa trẻ nào đó bướng bỉnh, cắc cớ ném ông xuống ruộng, nhất định vài hôm sau ông sẽ trở về chỗ cũ. Ông Tà rất thương trẻ con nên không bao giờ quở phạt trẻ dù chúng nghịch ngợm. Tại gần một khu du lịch, nhiều người qua đường cứ tiêu tiểu, xả rác rất mất vệ sinh, nhưng từ khi chủ đất thỉnh ông Tà về thờ cúng, tuyệt nhiên không ai dám đến làm chuyện bậy bạ đó nữa.
Với người Việt, bà con thờ ông Tà cũng giống như thờ Thổ thần hoặc thần Tài, ông Địa vì ai cũng muốn trong nhà, ngoài ngõ luôn có một vị thần trông coi việc gia cư, định đoạt phúc và giúp họ an cư lạc nghiệp. Để có được một chỗ thờ trang nghiêm, bà con chọn một gò đất thật cao, xung quanh vắng vẻ để dọn nền cất miếu thờ ông Tà. Cạnh bên miếu thường trồng cây đa, cây xộp hoặc bụi tre gai để tạo bóng mát.
Ngày nay, có dịp về vùng sâu ở nông thôn, chúng ta có thể tìm thấy hình ảnh ông Tà thờ chung với Thổ thần trong cùng một ngôi miếu, nhưng bài vị thì chỉ có hai chữ Thổ Thần bằng tiếng Hán. Hàng năm, bà con thường cúng ông Tà vào tháng Giêng, sau khi thu hoạch mùa màng. Đồ ăn, có gì cúng nấy, nghèo thì nải chuối, ba vắt xôi… giàu thì gà, vịt, đầu heo và một bình rượu trắng, quan trọng vẫn là tấm lòng thành như ông cha thường nói: “Tâm động quỷ thần tri”. Trong cuốn Đình miếu và lễ hội dân gian, nhà văn Sơn Nam đã đưa ra một nhận định thật chí lý: “Ý niệm về thiên - địa - nhân lắm khi linh cảm nhưng không lý luận được”.
|
Miếu ông Tà của người Khmer, bên cạnh gốc cây dầu to nhất ở Trà Vinh
|
Lại có chuyện kể rằng, xưa kia, ông Tà được nhiều người mến mộ, cúng bái nhưng từ khi ông Địa vào nhà, bao nhiêu đồ cúng đều về tay ông Địa, ông Tà dần dần bị thất sủng, lại còn bị “thỉnh” ra ngồi dưới gốc cây hoặc bìa ruộng, bìa vườn. Vì vậy ông đã nhờ một vị thần phân xử.
Sau khi xem xét, vị thần ấy phán rằng: Địa suốt ngày cần mẫn chăm lo họa phúc cho dân tình nên được mọi người kính nể, còn như Tà thích rong chơi, hay ngao du sơn thủy, ít gần gũi xóm giềng nên người đời xao lãng, đó cũng là lẽ thường tình. Kể từ bây giờ, các ngươi hãy siết chặt tay nhau, người nào việc nấy để cùng chăm lo cho dân lành theo sự phân công của ta, ông Địa giữ nhà, ông Tà giữ ruộng. Thế là ông Tà mãn nguyện, sẵn sàng ngụ ở bất cứ nơi nào, dù ngoài đồng, bờ ruộng, gốc cây hay hang đá vẫn cứ vui lòng.
Theo HOÀI PHƯƠNG
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần