[1] Phương Đẳng có 9 kinh là: 1/ Kinh Hoa nghiêm 2/ Pháp Hoa 3/ Phương Đẳng 4/ Lăng Già 5/ Bát Nhã 6/ Kim Cang 7/ Di Đà 8/ Giải Thâm Mật 9/ Lăng Nghiêm.
[2] Năm bộ Nikaya như Trường Bộ, Trung Bộ, Tăng Chi, Tương Ưng và Tiểu bộ.
[3] Bảy cõi: trời, a-tu-la, tiên, người, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
[4] Năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
[5] Sáu nhập: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
[6] 12 xứ: 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp).
[7] 18 giới: 6 căn, 6 trần và 6 thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thân thức và ý thức).
[8] 7 đại: địa đại, thủy đại, hoả đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại.
[9] Bốn đảo:
-Thân bất tịnh cho là tịnh.
-Thọ thì khổ cho là vui.
-Tâm vô thường cho là thường.
-Pháp vô ngã cho là ngã.
[10] Tứ không:
-Trời Không Vô biên xứ
- Trời Thức Vô biên xứ
- Trời Vô sở hữu xứ
- Trời Phi tưởng phi phi trưởng xứ.
[11] Tứ thiền: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền.
[12] Lục dục thiên:
- Tứ Thiên Vương Thiên
- Đao Lợi Thiên
- Tu Diệm Ma Thiên
- Đâu Suất Đà Thiên
- Lạc Biến Hóa Thiên
- Tha Hóa Tự Tại Thiên.
[13] Năm giới: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói láo và không uống rượu.
CHƯƠNG IINHÂN DUYÊN NÓI KINH
Khi ấy vua Ba-tư-nặc, nhân ngày kỵ phụ vương, mở tiệc chay mời Phật thọ trai nơi cung điện. Vua sắm đủ các món ăn quý báu, rồi thân đến rước Phật và các vị Đại Bồ tát. Trong thành lại có các trưởng giả cư sĩ đồng thời cũng trai tăng, chờ Phật đến chứng. Phật khiến ngài Văn-thù chia lãnh các vị Bồ-tát và A-la-hán đi đến các nhà trai chủ.
Duy có tôn giả A-nan trước đã nhận lời mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng tăng chúng. Tôn giả về một mình, không có Thượng tọa và A-xà-lê cùng đi và ngày ấy cũng không được ai cúng dường. Lúc bấy giờ, tôn giả cầm bình bát vào trong một thành, trên đường đi, theo thứ lớp khất thực, tâm ngài trước hết cầu được một người tối hậu đàn việt làm trai chủ, không kể sang hèn, phát tâm làm sao cho tất cả chúng sanh được viên thành vô lượng công đức. Tôn giả A-nan đã biết đức Thế-tôn quở tôn giả Tu-bồ-đề và Đại Ca-diếp làm A-la-hán mà tâm không công bằng. Tôn giả kính vâng lời dạy vô giá của Phật độ thoát mọi điều chê bai nghi hoặc. Ngài đến bên thành, thong thả vào cửa, uy nghi nghiêm chỉnh, kính giữ phép hóa trai.
Trong khi khất thực, tôn giả đi ngang qua nhà người dâm nữ Ma-đăng-già bị phép huyễn thuật. Nàng ấy dùng tà chú Tiên Phạm thiên đạo Sa-tỳ-ca-la bắt vào phòng riêng dựa kề vuốt ve làm cho tôn giả A-nan gần phá giới thể.
Đức Như-lai biết A-nan mắc phải dâm thuật, nên dùng trai rồi, liền trở về tịnh xá. Vua cùng đại thần, trưởng giả cư sĩ đều đi theo Phật, mong nghe những pháp chủ yếu của đạo Phật.
Khi ấy trên đỉnh đức Thế Tôn phóng hào quang bách bảo vô úy, trong hào quang hiện ra toà sen báu nghìn cánh, có hoá thân của Phật kiết già ngồi trên, tuyên đọc thần chú, khiến ngài Văn-thù đem chú này đến giúp đỡ, tiêu diệt tà chú, đưa A-nan cùng Ma-đăng-già đều đến chỗ Phật ở. [1]
Nhân duyên chúng ta có kinh Thủ Lăng Nghiêm để học là do có một chuyện xảy ra với tôn giả A-nan.
Tôn giả A-nan là anh em họ với Phật. Thân phụ của thái tử Sĩ-đạt-đa là Tịnh Phạn vương, còn thân phụ của A-nan là Bạch Phạn vương (bào đệ của Tịnh Phạn vương). Đề-bà-đạt-đa là hiền huynh của A-nan. Sau khi xuất gia, tôn giả A-nan, một trong thập đại đệ tử của Phật, trở thành thị giả thân tín của Phật và được mệnh danh là bậc đa văn đệ nhất, có thể ghi nhớ những lời dạy của Phật chính xác như in. Sau khi Đức Phật nhập diệt, chúng ta nhờ Tôn giả rất nhiều trong việc kết tập kinh điển, nói ra hàng trăm bài pháp mà Đức Phật đã giảng nhiều nơi với nhiều thời điểm. Phật tử cũng rất thích nghe A-nan giảng pháp vì tôn giả vừa trẻ trung, rất hảo tướng và thuyết pháp rất trôi chảy lưu loát.
Các tổ có bài kệ tán thán tôn giả A-nan như sau:
Tướng như thu mãn nguyệtNhãn tợ thanh liên hoaPhật pháp như đại hảiLưu nhập A-nan tâm.
Nghĩa là:
Tướng như trăng thu đầyMắt biếc tợ sen xanhPhật pháp rộng như bểĐều rót vào tâm A-nan. [2]
Một ngày kia, tôn giả A-nan có phật sự xa về trễ, Đức Phật và chư tăng đã đi hoá trai ở cung vua Ba-tư-nặc. Sợ trễ giờ độ ngọ, nên tôn giả phải đi khất thực một mình.
Tâm ngài trước hết cầu được một người tối hậu đàn việt làm trai chủ, không kể sang hèn, phát tâm làm sao cho tất cả chúng sanh được viên thành công đức nghĩa là người nào mà chưa tu, chưa biết Phật pháp, chưa có phước, tôn giả A-Nan muốn mở đường phước đức cho họ, đến đó thọ trai.
Ngài thong thả vào cửa, uy nghi nghiêm chỉnh, kính giữ phép hóa trai: thong thả vào cửa thành, từ bộ quách môn, túc cung trai pháp tức tôn giả từng bước rất từ hoà, khoan thai điềm tĩnh, an hoà mà bước vào thành khất thực.
Đức Thế-tôn quở tôn giả Tu-bồ-đề và Đại Ca-diếp làm A-la-hán mà tâm không công bằng: tôn giả Tu-bồ-đề chuyên đi khất thực nhà giàu trong khi tôn giả Đại Ca-diếp chuyên đi khất thực nhà nghèo. Bởi ngài Ca-diếp cho rằng nghèo là bởi vì người ta kém phước, nên tạo phước cho họ. Họ chỉ cần phát tâm muốn cúng đường tức là đã bán cái nghèo và đã trở thành giàu rồi. Chỉ cần phát tâm hổ thẹn là bán cái thiếu hụt về quần áo che thân mà tạo phước có quần áo ăn mặc đầy đủ rồi. Vì vậy ngài Ca diếp chuyên đi khất thực nhà nghèo.
Ngài Tu-bồ-đề do định lực mạnh và do phép quán tưởng về tánh không mạnh nên lúc ngài vừa lọt lòng, ông bà thân sinh và cả nhà thấy trong phòng trống rỗng, của cải đồ đạc biến mất. Còn ngài Xá lợi phất cũng thế. Sức trí tuệ của ngài đã ảnh hưởng mạnh nên khi ngài còn nằm trong bào thai, đã khiến thân mẫu trở nên ăn nói lưu loát, biện luận khúc chiết mọi triết lý trên đời. Riêng thái tử A-xà-thế tâm ác mạnh nên khi hoàng hậu Vi-đề-hy mang thai khiến bà thèm khát hút máu phu quân khi ốm nghén. Tất cả đây đều là do từ trường của tâm phát ra hay tinh thần thế nào thì có sự ảnh hưởng xung quanh thế ấy.
Do sức quán tưởng mạnh và lòng ngài rỗng rang buông xả không vướng mắc, nên tôn giả Tu-bồ-đề không ngại lời đàm tiếu rằng ngài chỉ thích đi khất thực nhà giàu. Vì ngài nghĩ rằng nếu nhà giàu có cúng dường bố thí thì cũng không ảnh hưởng miếng ăn của họ, nên mặc người phàm đàm tiếu cho rằng ngài thích ăn đồ ngon, nên lựa khu sang trọng mà đi khất thực, ngài vẫn đều hoá độ nhóm nhà giàu.
Tôn giả A-nan nhớ hai đại sư huynh đều bị Phật quở cả. Đức Phật thì bình đẳng không phân biệt sang hèn gì cả, ai cúng thì ngài thuyết pháp độ họ.
Mỗi ngày vào lúc bình minh, Đức Phật thiền tọa và rải từ bi quán đến mười phương và sau đó dùng dùng tuệ nhãn quán xem chúng sanh ở hướng nào, làng nào thời tiết đã đến, cần ngài đến hoá độ thì Đức Phật sẽ từ tốn, oai nghi thanh thoát, siêu phàm đi khất thực về hướng đó để khất thực.
Nghe Đức Phật quở trách hai đại sư huynh là tôn giả Ca-diếp và Tu-bồ-đề là tâm không bình đẳng khất thực, nên A-nan khởi tâm đến hoá độ ở khu vực nào mà họ ít biết phát tâm, bất kể họ giàu nghèo hay thuộc loại người nào, ngài không phân biệt gì cả. Do đó, tôn giả đi ngang qua nhà kỹ nữ Ma-đăng-già và bị nàng dùng chú Phạm thiên thôi miên tôn giả để đưa vào phòng thỏa mãn dục tính.
Một bề học rộng nhớ nhiều, chưa toàn đạo lực: nghĩa là tôn giả A-nan không có khả năng tự chủ, đưa đến mất chánh niệm trước sắc đẹp tuyệt vời của kỹ nữ.
Đức Phật cùng chư tăng đang thọ trai tại cung vua Ba-tư-nặc. Với thiên nhãn, Phật biết A-nan đang sắp bị nạn Ma-đăng-già và gần phá giới thể nên Đức Phật bảo tôn giả Văn-thù đem thần chú Thủ Lăng nghiêm đến cứu A-nan. Từ trên đỉnh đầu Phật biến ra hóa thân Phật tuyên đọc thần chú.
Có hoá thân của Phật kiết già ngồi trên thiền tọa, tuyên đọc thần chú: nói hoá thân tức là từ pháp thân hoá hiện. Đây là diệu dụng của pháp thân mà pháp thân thì khắp 10 phương suốt ba đời là thân giáo, tức thần chú có hữu hiệu khắp tất cả 10 phương ba đời chứ không phải chỉ từ miệng đức Phật Thích Ca nói. Nếu nói do chính từ Phật Thích Ca nói thì sợ kẹt vào tính địa phương (địa danh là tại thành vua Ba-tư-nặc) cho rằng thần chú nói ở đó mới hữu nghiệm hoặc thần chú chỉ hữu dụng, cần thiết cho thời gian lúc đó thôi tức cách đây 26 thế kỷ, chứ bây giờ hay lúc khác thì không hữu hiệu. Thế nên, thần chú phải từ pháp thân nói với ý nghĩa cho suốt cả ba đời (quá khứ, hiện tại và vị lai) và ở mười phương (đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên và dưới) đều linh ứng.
Tôn giả A-nan thấy Phật, đảnh lễ khóc lóc, giận mình từ vô thủy đến nay, một bề học rộng nhớ nhiều, chưa toàn đạo lực, tha thiết xin Phật dạy cho những phép sa-ma-tha, tam-ma, thiền-na, là những phương tiện tu hành đầu tiên để thành đạo bồ-đề của thập phương Như-lai. Lúc ấy, lại có hằng hà sa Đại Bồ-tát, Đại A-la-hán và Bích-chi Phật, từ mười phương đến, thảy đều mong nghe Phật dạy, lui về chỗ ngồi, yên lặng lãnh thọ thánh chỉ của Phật. [3]
A-nan thấy Phật tủi khóc và xin ngài chỉ dạy pháp Sa-ma-tha, tam-ma, thiền-na, là những phương tiện tu hành đầu tiên để thành đạo bồ-đề của thập phương Như-lai. Vì lý do đó, Đức Phật mới thuyết giảng về Sa-ma-tha, tam-ma, thiền-na tức là nội dung của kinh Thủ Lăng Nghiêm.
1. Sa-ma-tha (chỉ): vi mật quán chiếu, an định tinh thần để xét tâm hiện tại của mình đâu là chơn, đâu là vọng. Tức phần này là chúng ta phải hiểu về lý thuyết phân biệt rõ ràng giữa chơn và vọng, căn bản bồ đề và căn bản sanh tử.
2. Tam-ma (định): thực hành trở về phần chân, căn bản bồ đề.
3. Thiền-na (huệ): ứng dụng chân ngay vọng, bồ đề ngay sanh tử. Chân tức là vọng, vọng tức là chân. Hậu đắc trí hiển hiện sau khi có căn bản trí. Đây là pháp chuyển y của Như lai: chuyển phiền não thành Bồ đề, chuyển sanh tử thành Niết bà của Như Lai.
[1] Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Minh biên dịch, NXB Tp HCM, 1999, tr. 31-3.
[2] Thập đại đệ tử Phật, Eastwest Printing, 1999, tr. 98.
[3] Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 33.
Chương IIIGẠN HỎI CÁI TÂM
Phật bảo A Nan: “Tôi với thầy đồng phái, tình như anh em ruột; lúc thầy mới phát tâm thì ở trong Phật pháp, thấy những tướng tốt gì mà bỏ được những ân ái sâu nặng thế gian?”
A Nan bạch Phật: “Con thấy 32 tướng của Như Lai tốt đẹp lạ thường, hình thể sáng suốt như ngọc lưu ly, thường tự suy nghĩ: Tướng ấy không thể do dục ái sinh ra. Vì sao? Giống dâm dục nhơ nhớp, tanh hôi kết cấu, máu mủ xen lộn, làm sao sinh được thân vàng thắm chói trong sạch sáng suốt như vậy, nên con ước mong cắt tóc theo Phật tu học”.
Phật dạy: “Hay thay, A Nan, nên biết hết thảy chúng sinh từ vô thỉ đến nay sống chết nối luôn, đều do không biết thể tính trong sạch sáng suốt của thường trụ chân tâm mà lại chỉ dùng các vọng tưởng, vì vọng tưởng đó không chân thật nên mới có luân hồi. Nay thầy muốn học đạo vô thượng Bồ đề, phát minh chân tính thì nên lấy tâm ngay thẳng mà đáp lại những câu hỏi của tôi. Thập phương Như Lai đều do một đường thoát ly sinh tử là dùng tâm ngay thẳng. Tâm mà nói là ngay thẳng thì cứ như vậy, từ địa vị đầu đến địa vị cuối cùng, chặng giữa, hẳn không có những tướng quanh co”.
A Nan, nay tôi hỏi: “Đương khi thầy do 32 tướng của Như Lai mà phát tâm thì thầy đem cái gì mà thấy và cái gì ưa muốn?”
A Nan bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, ưa muốn như vậy là dùng cái tâm và con mắt của con. Do mắt thấy tướng tốt Như Lai, tâm sinh ưa muốn nên con phát tâm muốn tu hành thoát khỏi sống chết”.
Phật bảo A Nan: “Như lời thầy nói: Thật do tâm và con mắt mà nó ưa muốn. Nếu không biết tâm và con mắt ở đâu thì không thể hàng phục được trần lao; ví như vua một nước bị giặc xâm lấn, phát binh đánh dẹp, thì binh ấy cần biết giặc ở chỗ nào mới đánh dẹp được. Hiện thầy còn mắc phải luân hồi là lỗi tại tâm và con mắt. Nay tôi hỏi: “Tâm và con mắt ấy hiện ở chỗ nào ?” [1]
Ta thấy Đức Phật rất tâm lý. Ngài nâng dắt cho A-nan đỡ tủi thân, có chỗ tin cậy, nương tựa, không có lo sợ, âu sầu, xấu hổ về lỗi của mình nên nói rằng Tôi với thầy đồng phái, tình như anh em ruột: Đức Phật tỏ ra thân mật, an ủi thương xót, chúng ta là đồng khí huyết như anh em ruột để A-nan yên lòng. Rồi ngài mới bắt đầu hỏi để chỉ cho A-nan thấy cái gì khiến A-nan luân chuyển? Nguyên nhân gì khiến A-nan bỏ cung điện để trở thành bậc sa-môn như thế này.
Hết thảy chúng sinh từ vô thỉ đến nay sống chết nối luôn: trong cuốn sách ‘Vòng Luân Hồi’ mục Danh và Sắc[2] vẽ hình người lái đò đang lái thuyền trên dòng sông sanh tử. Người lái đò là tâm, thuyền là thân, dòng sông sanh tử là mang hết thân này đến thân khác triền miên từ vô thủy đến nay sống chết nối luôn là do anh lái đò chỉ huy lèo lái, tức do tâm của mình. Thế nên, mục đầu tiên ở đây là Đức Phật gạn hỏi về cái tâm. Do tâm gì mà A-nan luân chuyển thành Sa-môn và do tâm gì mà sanh lòng ái luyến cô Ma-đăng-già?
Thập phương Như Lai đều do một đường thoát ly sinh tử là dùng tâm ngay thẳng: vì giả dối quanh co là tướng của mê muội tối tăm.
Đức Phật ra đời cốt chỉ cho chúng ta một con đường thoát, một con đường cứu khổ chúng sanh, thoát khổ luân hồi. Vì luân hồi mà có thân sanh và chết. Nay làm phước được sanh lên cõi trời, người; mai làm tội lại rớt vào địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh. Hễ thiện thì thăng lên, nhưng rồi ác thì đọa và đi xuống. Sanh tử luân hồi là gốc của tất cả biển khổ, biển trầm luân.
Muốn thoát khổ thì phải tìm gốc của khổ, như muốn giết giặc thì phải biết sào huyệt của giặc; như muốn thường trụ an vui thì phải gieo nhân thường trụ an vui. Thế cho nên phải tìm gốc, tìm nguyên nhân vì sao chúng ta lại luân hồi sanh tử và vì sao mà Đức Phật lại được thường trụ an vui?
Trước khi đưa A-nan vào chánh pháp, Đức Phật muốn A-nan nhận ra chỗ hiểu của A-nan là đúng hay sai? Nên ngài vặn hỏi câu này câu kia, để A-nan thấy bịnh của mình. Bây giờ A-nan xin cầu pháp giải thoát luân hồi sanh tử? Thế thì Đức Phật hỏi vì sao A-nan đang bị luân hồi ngay trong đời hiện tại này?
Vì sao A-nan đang là một vị hoàng tử hưởng đầy phúc báo của loài người, được cung phụng hầu hạ, ăn đầy những món cao lương mỹ vị, lên xe xuống ngựa, sống trong cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, đi dép vàng, ngồi ngai vàng, ngủ cũng giường vàng mà bỗng nhiên phát tâm trở thành sa-môn đi chân đất, ngày mỗi bữa phải cầm bình bát đi khất thực ăn xin (đối với thế gian, nhất là hoàng gia mà đi ăn xin khất thực là một điều nhục nhã lắm mà A-nan đã làm được). Đó là hai cuộc đời chuyển đổi. Chính A-nan đang luân hồi trong hiện tại. Luân hồi nghĩa là luân chuyển từ trạng thái sang trạng thái khác hay từ hình tướng này sang hình tướng khác. Thế cho nên phải tìm nguyên do ngay trong giờ phút hiện tại này.
Và xem cái luân chuyển kế tiếp là gì? sẽ hoàn tục vì yêu thích nàng Ma-đăng-già? Bởi lẽ nếu không có đại thần chú Thủ Lăng nghiêm yểm trợ thì tôn giả A-nan sẽ dễ dàng đánh mất chánh niệm.
Câu hỏi thứ nhất Đức Phật hỏi vì sao luân chuyển xuất gia như thế? Tôn giả trả lời nhanh gọn, thẳng thắn và minh bạch rằng: Con thấy 32 tướng của Như Lai tốt đẹp lạ thường, hình thể sáng suốt như ngọc lưu ly, thường tự suy nghĩ: Tướng ấy không thể do dục ái sinh ra. Vì sao? Giống dâm dục nhơ nhớp, tanh hôi kết cấu, máu mủ xen lộn, làm sao sinh được thân vàng thắm chói trong sạch sáng suốt như vậy, nên con ước mong cắt tóc theo Phật tu học.
Nghĩa là nguyên nhân là do Tôn giả A-nan gặp cảnh trần, sáu căn thấy sáu trần nên tâm động. Gặp Phật chuyển về thiện nên đi đường thiện, thế phát xuất gia. Gặp nàng Ma-đăng-già chuyển về đường ái nhiễm nên đi đường sa ngã, suýt nữa đánh mất chánh niệm. Thế nên ngay một câu trả lời của A-nan đã minh bạch con đường luân hồi của tôn giả đã chấm dứt.
Muốn giết giặc thì phải biết giặc ở chỗ nào, muốn biết vì sao A-nan luân chuyển giữa thiện ác, giữa hai cuộc đời thì phải biết cái tâm đó ở đâu, nên Đức Phật hỏi A-nan mắt thấy 32 tướng tốt của Phật, sinh tâm khát ngưỡng và tâm yêu thích vẻ mỹ miều xinh đẹp của nàng Ma-đăng-già ấy, vậy tâm và con mắt ấy ở đâu?
A-nan trải qua bảy lần tìm tâm như sau:
1. Chấp tâm trong thân: A-nan bảo mười loài chúng sanh đều biết tâm yêu thích tức tim và tâm chúng con (my heart, mind) rõ ràng là nó nằm trong thân.
Phật nói tâm đó biết đủ thứ trên trời dưới biển, chuyện người này người kia, nếu nó nằm trong thân thì nó phải biết, phải thấy được ruột gan, bao tử, phèo phổi, tim gan của A-nan trước khi thấy bên ngoài chứ? Nếu nó không thấy được như thế thì ý nghĩa cho rằng tâm bên trong, không thể thành lập được.
2. Chấp tâm ngoài thân: vậy chắc tâm con nằm ở ngoài, vì không thấy bên trong mà lại biết bên ngoài, cũng giống như đèn thắp sáng bên ngoài, thì trong phòng sao thấy được. Như tâm ở ngoài nên biết đủ chuyện trên trời dưới biển, khắp thế giới, nhưng không ở bên trong nên không thấy ở trong ruột gan được.
Phật bảo nếu nó ở ngoài thân thì nó có liên quan gì đến A-nan, chẳng khác nào thân người này mà tâm người khác, như một người ăn cơm mà người khác no giùm.
3. Chấp tâm núp sau con mắt: Không thấy bên trong ruột gan vì tâm không ở trong thân mà lại thấy bên ngoài, vậy tâm hay biết của con chắc núp sau con mắt như người lấy cái ly úp lên mắt, mắt thấy thì phân biệt được liền, không bị ngăn ngại. Phật bảo nếu vậy thì tâm phải thấy con mắt trước khi thấy cảnh vật, cũng giống như mắt thấy cái ly chụp nơi con mắt trước khi thấy cảnh sắc bên ngoài. Nên nghĩa này cũng không thành lập được.
4. Nhắm mắt thấy tối là thấy bên trong thân: A-nan lại nghĩ phủ tạng ở trong, khiếu huyệt bên ngoài. Có tạng thì tối, có khiếu thì sáng, nên con nghĩ rằng mở mắt thấy sáng là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối là thấy bên trong, không biết nghĩa ấy thế nào, cầu Phật từ bi thương xót chỉ dạy.
Phật bảo nếu nhắm mắt thấy tối là thấy trong thân, vậy ban đêm không đèn thì những gì trong phòng tối đó đều là tam tiêu[3] lục phủ[4] của A-nan sao? Và nếu mở mắt thấy sáng là thấy bên ngoài, vậy mở mắt sao không thấy cái mặt A-nan trước khi thấy cảnh sắc bên ngoài?
5. Chấp tâm hợp với chỗ nào thì liền có ở chỗ ấy: A-nan thưa: con thường nghe Phật dạy do tâm sanh nên các pháp sanh; do pháp sanh nên các thứ tâm sanh, như vậy thì hễ hợp chỗ nào thì tâm liền có chỗ đó.
Phật bảo cái tâm ấy nếu không có tự thể thì không thể hợp được. Còn nếu có tự thể thì khi A-nan gãi đầu, cái tâm biết gãi đó từ trong thân ra hay từ bên ngoài thân vào? Nếu từ trong thân ra thì phải thấy bên trong. Nếu từ bên ngoài thân vào thì trước hết phải thấy cái mặt. Đức Phật nói tiếp: Tâm hay biết đó có một thể hay nhiều thể? Nếu một thể thì khi gãi cả tứ chi đều biết. Nếu cả tứ chi đều biết thì không biết gãi ở chỗ nào. Còn nếu nhiều thể thì nhiều người, cái nào là thể của A-nan?
6. Tâm ở chặng giữa: A-nan lại thưa: con hay nghe Phật nói thật tướng với các vị Pháp vương tử như ngài Văn thù rằng: tâm không ở trong cũng không ở ngoài, con nghĩ chắc nó ở giữa căn và trần.
Phật bảo ở giữa thì giữa cái nào? nếu không nêu ra được thì không gọi là giữa mà nêu ra được thì không nhất định là giữa, ví như cắm cái cọc làm giữa. Người ở phương đông trông qua, thì cái cọc lại ở phương tây. Còn phương nam nhìn qua thì cọc ở phương bắc.
Nếu tâm ở giữa căn và trần thì gồm cả hai bên hay không gồm cả hai bên? Nếu gồm hai bên thì ngoại vật và tâm thể xen lộn lấy gì làm tâm. Ngoại vật thì không biết, tâm thì biết lấy gì làm chính giữa?
7. Chấp tâm không dính dáng vào đâu tất cả: Thưa Thế tôn, con cũng nghe Thế tôn chuyển pháp luân với bốn vị đại đệ tử là Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Phú-lâu-na, Xá-lợi-phất rằng cái tính hay biết của tâm cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở chặng giữa, chẳng ở chỗ nào cả, không dính dáng vào đâu cả thì gọi là tâm.
Phật hỏi: vậy những vật mà tâm không dính dáng đó là có hay không có? Nếu không thì như lông rùa sừng thỏ lấy gì mà không dính dáng. Còn nếu có tướng thì có chỗ ở là biết rồi, làm sao lại không dính dáng được. Thế cho nên cho rằng cái không dính dáng vào đâu cả là tâm của A-nan, điều này không thành lập được.
Tóm lại, bảy lần tìm tâm đều bị Phật bác là không phải tâm của A-nan. A-nan và đại chúng rất kinh hãi, nếu không phải tâm vậy tâm hay biết đó nó là cái gì? Chúng ta quen nương tựa vào một cái gì đó. Tánh nương tựa đó thành thói quen thành nghiệp. Tìm tâm cũng thế, chúng ta phải nương một danh từ một cái gì đó vào tâm mình và cho đó là tâm của mình, nhưng nay đều bị Đức Phật bác bỏ cái đó rõ ràng không phải là tâm của chúng ta. A-nan và đại chúng thật kinh sợ nên bạch xin Phật chỉ dạy tiếp.
[1] Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 35-7. Từ đoạn này trở đi, tác giả xin phép đổi các đại từ nhân xưng trong văn dịch của ĐH. Tâm Minh:‘tôi’, ‘ông’ thành ‘tôi’, ‘thầy’, ‘con’.[2] TN Giới Hương., Vòng Luân Hồi, NXB Phương Đông, 2008, tr. 88.[3] Tam tiêu: -Thượng tiêu (ngăn trên): chứa tim, gan, phổi-Trung tiêu (ngăn giữa): chứa bao tử, là lách, ruột non.-Hạ tiêu (ngăn dưới): chứa bọng đái, ruột già.(Tự điển Việt Nam, Trần văn Đức, Khai trí, 1970, trang 1344).[4] Lục phủ: tam tiêu, bao tử, gan, bong bóng, ruột non và ruột già.(Tự điển Việt Nam, Trần văn Đức, Khai trí, 1970, trang 847).Tam tiêu thông suốt, không trì trì giúp cho lục phủ lưu thông. Lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn, tiêu hoá, bài tiết được thuận lợi, cơ năng sinh sản có sức tiếp, giữ vừng trạng thái bình thường của cơ thể tức là âm dương thân bằng, cơ thể khoẻ mạnh.
Thích Nữ Giới Hương
Còn nữa...