Chị ơi,
Em đi theo Thầy Nhất Hạnh có gì lạ và nguy hiểm đâu mà chị phải lo đến vây? Nếu chị hiểu những việc em làm từ thời còn ngồi trên ghế Đại học Sư phạm (1962) cho đến nay (2009) hẵn chị sẽ nhận ra em đang làm câu kết cho một bài thơ tứ tuyệt. Ba câu thơ trên có hay đến mấy mà thiếu câu kết cũng không bao giờ thành một bài thơ. Bài thơ đời em, câu một: kiếm sống và đi học; câu hai: tranh đấu đô thị và kháng chiến thống nhất đất nước; câu ba: sưu tầm nghiên cứu lịch sử văn hóa phục dựng lại cái hồn dân tộc sau chiến tranh, câu bốn: em đang phấn đấu đưa thành tựu lịch sử văn hóa của mình vào cuộc đời, góp phần xây dựng bản sắc Việt, bản sắc Huế cho tuổi trẻ thời hội nhập. Ba câu thơ trên hay mà câu kết dớ cũng làm hỏng mất bài thơ. Em đi theo Thầy Nhất Hạnh để hoàn thành câu thơ cuối của đời mình.
1. Ơn đức đầu đời Chị ơi, Đọc bản thảo hồi ký của em, chắc chị còn nhớ chuyện em đi thi Tiểu học chứ? Lúc nhỏ em không được đi học. Đến khi được đi học ở trường Đa Phước, anh của em phải khai cho em trụt 6 tuổi, được thầy Võ Quang Khương và thầy Nguyễn Tri Bật dạy cho em học băng. Do đó trường Đa Phước không ký học bạ lớp Nhất để cho em đi thi Tiểu học. Thầy Nguyễn Tri Bật - chắt nội của cụ Nguyễn Tri Phương rất thương em nên đưa em lên trường Tuệ Quang ở Cây số 4. Trường Tuệ Quang do các thanh niên tăng của Phật Giáo mới thành lập. Các vị tăng nầy phần lớn xuất thân ở các chùa Huế nên gặp thầy Bật là người Huế họ rất niềm nỡ. Thầy gặp vị tăng chủ chốt của trường trình bày về trường hợp em là con nhà nghèo, hiếu học nhưng vì học băng nên không có Học Bạ lớp Nhất để đi thi Tiểu học.Thầy Bật xin trường Tuệ Quang cấp cho em một Học Bạ lớp Nhất rồi mẹ em sẽ trả học phí cho trường xem như em học ở trường suốt niên khóa qua. Vị tăng trẻ bảo ngay:
-Thầy đã bỏ công dạy cho trò nầy thì trường Tuệ Quang cũng có thể cấp cho trò một Học Bạ chứ lấy tiền của mẹ trò làm gì. Nhưng, dù nhà trường tin thầy, theo nguyên tắc, nhà trường cũng phải kiểm tra học lực của trò nầy rồi mới cấp hay không.
Trường Tuệ Quang xưa, bị bom Mỹ san bằng hồi tháng 1-1968, hiện chỉ còn một bãi đất hoang (2008)
Thầy Bật đồng ý. Thầy tin học lực của em. Thầy không ngại bất cứ cuộc kiểm tra nào. Sau đó em đi học Tuệ Quang được một tuần. Đầu tuần sau em được cấp một Học Bạ lớp Nhất do thầy Hiệu trưởng Thích Thiện Tấn ký. [Về sau thầy Bật cho em biết vị thanh niên tăng mà thầy Bậc gặp ở trường Tuệ Quang là Thiền sư Thích Nhất Hạnh và thầy Hiệu trưởng Thích Thiện Tấn là anh ruột của Thiền sư]. Nhờ cái Học bạ của Trường Tuệ Quang của thầy Thiện Tấn và thầy Nhất Hạnh em mới được đi thi Tiểu học và được lảnh phần thưởng Danh dự ở Rạp Ngọc Hiệp Đà Lạt năm đó (1954) với tư cách là học trò trường Tuệ Quang. Nhờ cái Học bạ của trường Tuệ Quang, cậu bé nông thôn Nguyễn Đắc Xuân bước qua được cái ngưỡng Tiểu học để có cơ hội học lên và có được học vấn Đại học như ngày nay. Thật em không ngờ, cuộc đời cầm bút của em đã được trợ duyên từ một Thiền sư nổi tiếng quốc tế sau nầy như thế.
2. Ứoc mơ hòa bình, nói với tuôi hai mươi Và, chị có bất ngờ không, chính người học trò chỉ học trường Tuệ Quang có một tuần đó, mười một năm sau (1965) lại gặp lại Thầy Nhất Hạnh trong một hoạt động văn học để đời.
Chắc chị còn nhớ, sau cuộc đấu tranh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Sinh viên Huế chúng em nghĩ tình hình miền Nam sẽ khá hơn. Nhưng không ngờ sau đó Tổng thống John F.Kennedy bị ám sát, Phó Tổng thông Lyndon B. Johnson lên thay, Chính phủ Mỹ thực hiện nhiều toan tính leo thang chiến tranh ở Việt Nam. Ngày 2-8-1964, chiến hạm Maddox của Hoa Kỳ gây ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Chiến tranh của Mỹ mở rộng ra miền Bắc Việt Nam. Để phục vụ cho việc leo thang chiến tranh, người Mỹ dựng lên ở Sài Gòn nội các quân phiệt Nguyễn Khánh, ban hành Hiến chương Vũng Tàu thâu tóm mọi quyền lực cho quân đội dưới trướng ông Nguyễn Khánh, ban bố tình trạng khẩn trương trên toàn miền Nam, cấm ngặt việc nói, viết, bình luận hai chữ “hoà bình”. Cuộc đấu tranh của sinh viên học sinh và đồng bào Phật tử Huế nổ ra trong đêm 20-8-1964 (kỷ niệm một năm bị Kế hoạch nước lũ của gia đình họ Ngô tàn sát Phong trào đấu tranh chống Diệm ở các đô thị miền Nam Việt Nam), cũng chỉ dám nêu khẩu hiệu chống chế độ “quân phiệt” Nguyễn Khánh chứ không ai dám nói đến hai chữ “hoà bình”. Bởi vì hai từ “hoà bình” lúc ấy dưới mắt chính quyền Sài Gòn tương đương với hai từ “Việt Cộng”. Mà “Việt Cộng” là bị đặt ra “ngoài vòng pháp luật”. Người bị chụp mũ “Việt Cộng” có thể bị bắn bỏ bất cứ lúc nào. Lúc ấy Sinh viên Phật tử chúng em, phần lớn xuất thân trong các gia đình ở nông thôn, tận mắt nhìn thấy và hứng chịu sự dã man của bom đạn Mỹ gây ra cho người thân, cho làng xã mình mà không dám hé môi tố cáo, phản đối chiến tranh của Mỹ. Đầu năm 1965, đột nhiên một cánh chim hoà bình bay đến giữa các đô thiu miền Nam – thị phẩm Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện của Thầy Nhất Hạnh - một nhà sư du học ở Âu Mỹ mới về Việt Nam từ sau ngày lật đổ chế độ độc tài kỳ thị tôn giáo Ngô Đình Diệm. Qua thơ, Thầy Nhất Hạnh đã phát ngôn hộ khát vọng hòa bình của bọn em. Bọn em ngấu nghiến đọc và khóc với nhiều hình ảnh trong thơ. Nhân có tập thơ của Thầy Nhất Hạnh (do Nhà xuất bản Lá Bối ấn hành) trong tay, một số đoàn viên Sinh viên Phật tử - em còn nhớ có các bạn Nguyễn Thiết, Bửu Hồ, Phạm Thị Xuân Quế, Lê Minh Trường, Nguyễn Hữu Hiệp, Nguyễn Thế Côn…) bàn với anh Vĩnh Kha (Đoàn trưởng) và em (Đoàn Phó phụ trách nội vụ) xin lãnh đạo Giáo hội cho tổ chức triển lãm tranh của Hoạ sĩ Lê Minh Trường và nhân có đủ mặt quan khách (kể cả đại diện chính quyền và quân đội Vùng 1 chiến thuật) đến dự triển lãm bất ngờ giới thiệu tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện của Thầy Nhất Hạnh để gióng lên “tiếng nói hoà bình”. Em và anh Vĩnh Kha trực tiếp xin phép và được các thầy lãnh đạo Giáo hội đồng ý cho tổ chức triển lãm tranh tai Nhà giảng chùa Từ Đàm Huế. Chuyện giới thiệu tập thơ thì giữ tuyệt mật không báo cho các thầy biết. Vào một buổi chiều mưa phùn lạnh lẽo cuối năm Giáp Thìn (đầu năm 1965), Phòng tranh Quê Nghèo của Lê Minh Trường tại nhà giảng chùa Từ Đàm được cắt băng khai mạc. Phòng tranh có khoảng 25 tấm. Ngoài một vài bức tranh sơn dầu vẽ trên toan (toile) phần lớn tác giả dùng phấn màu vẽ trên bố (bao gạo), giẻ rách, vải tận dụng từ áo quần rằn ri của lính biệt kích, lính dù quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Nội dung các bức tranh tả thực cảnh nông thôn nghèo bị chiến tranh tàn phá rất cơ cực. Em nhớ nhất là bức vẽ trên bao bố hình ảnh một bà mẹ với vẻ mặt quắt queo như một trái cau khô bên giàn bầu, giàn bí nghiêng đổ. Đây là cuộc triển lãm phản chiến đầu tiên ở miền Nam Việt Nam những năm sáu mươi. Người xem dù với tư cách gì, thuộc tầng lớp nào cũng đều rất xúc động. Sự xúc động đang lắng sâu thì đột nhiên Lê Minh Trường đến máy phóng thanh tuyên bố đại ý:
- “Thưa quý vị, cám ơn quý vị đã có những lời khen tặng cho các bức tranh nghèo của tôi. Nhưng sự thực, tôi đã lấy một phần cảm xúc từ trong tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Tôi xin giới thiệu một vài bài trong tập thơ để quý vị thưởng thức và cảm nhận thêm thân phận làm người Việt Nam mà tôi đã gởi gắm trong các tranh”.
Trong lúc mọi người đang ngơ ngác, Lê Minh Trường giở tập thơ và đọc ngay bài đầu tiên:
“Hoà Bình
“Sáng nay vừa thức dậy
nghe tin em gục ngã
nơi chiến trường
nhưng trong vườn tôi, vô tình
khóm tường vi vẫn nở thêm
một đoá
tôi vẫn sống, vẫn ăn và vẫn thở
nhưng đến bao giờ mới được nói thẳng
điều tôi ước mơ ?”
Bài thơ mang tựa đề Hoà bình, nội dung nói lên cái thực trạng chiến tranh đang sát hại con người một cách oan uổng. Hai từ “hoà bình” làm cho các quan chức chính quyền có mặt trong Phòng triển lãm phải nhíu mày. Nhưng vì tác giả bài thơ là một vị Thiền sư tốt nghiệp ở Đại học Princeton ở New Jersey, và đang dạy Đạo Phật tại Đại học Columbia (Hoa Kỳ) mới về Việt Nam ít lâu nên không ai dám có ý kiến gì cả. Riêng anh chị em Sinh viên Phật tử thì quá “đã”. Nhờ bài thơ của Thầy Nhất Hạnh mà bọn em có thể nói lên được hai từ “hoà bình” ước mơ của mình.
Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện thơ Nhất Hạnh do Lá Bối xất bản đầu 1965
“Nổ súng khai hoả” rồi mà vẫn thấy được bình yên, Lê Minh Trường “thừa thắng” đọc tiếp các bài Đừng biến mảnh vườn xanh xưa thành mồi ngọn lửa dữ, Ruột đau chín khúc, Sàigòn ơi đập tan đi ảo ảnh…trong tập Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện. Không khí trong nhà giảng bắt đầu căng thẳng. Lê Minh Trường say sưa đọc, không cần biết quan khách và người xem tranh đang nghe thơ trước mặt mình là ai, đang phản ứng trên nét mặt như thế nào. Với cử chỉ khẩn trương, Trường lật vội các trang thơ, mắt liếc nhìn vào các sĩ quan cao cấp ở Vùng I chiến thuật và đọc tiếp bài Chiến tranh (tr. 19-20). Trong đó có câu “Kẻ thù chúng ta không phải con người - dù con người Việt Cộng - giết con người đi rồi, chúng ta ở với ai ?”
Một quan chức (em không còn nhớ tên) bước vội đến nhìn sát vào trang thơ trên tay Lê Minh Trường xem thử đó là lời thơ của Thầy Nhất Hạnh hay lời người đọc thơ “cương” thêm. Ông định nói gì đó nhưng rồi lại thôi. Thầy Thích Đức Tâm (Phụ trách các đoàn thể Thanh niên của Giáo hội Phật giáo) biết ý, khoát tay bảo:
-“Hôm nay khai mạc phòng tranh, đọc thơ như vậy là đủ rồi”.
Bọn em thấy được như vậy cũng đã đủ rồi. “Con người Việt Cộng” bị đặt ngoài vòng Pháp luật đi qua thơ Thầy Nhất Hạnh đã hiện diện hợp pháp giữa khuôn viên chùa Từ Đàm. Bọn em đã nói lên được “ước vọng hoà bình”, phản đối chiến tranh của Mỹ đang gieo rắt trên quê hương Việt Nam.
Lễ khai mạc Phòng tranh Quê Nghèo của Lê Minh Trường kết thúc. Sau đó chính quyền Thừa Thiên và An ninh quân đội cho người lên nghiên cứu tác giả và tác phẩm Phòng tranh Quê Nghèo, nghiên cứu ai là người tổ chức. Thầy Đức Tâm sợ bọn em bị bắt nên đứng ra nhận trách nhiệm: “Triển lãm và giới thiệu sách tại chùa thì chùa đứng ra tổ chức chứ ai?” Để đối phó với những bất trắc có thể xảy ra, sau mấy ngày triển lãm, bọn em giúp Lê Minh Trường thu tranh về và phân ra gởi vào nhà các bạn thân. Sau đó Minh Trường bị bắt và bị đưa ra toà (vì một hoạt động khác) và bị giam ở Ba Lòng (miền tây Tỉnh Quảng Trị). Lê Minh Trường bị bắt và bị tù nên hầu hết tranh và tài liệu liên quan đến anh đều bị hủy. Sau nầy tìm hiểu em được biết Lê Minh Trường gởi cho anh Hoàng Văn Giàu (Cựu Đoàn trưởng sáng lập đoàn Sinh viên Phật tử Huế) giữ được bức Hoang vu, và gởi ở nhà chị Thái Kim Lan ở đường Bạch Đằng Huế bức Thuyền trăng. May mắn sao bức Thuyền trăng đến nay em chị Lan là Thái Nguyên Hạnh vẫn còn giữ.
Tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện của Thầy Nhất Hạnh có một tác dụng rất lớn. Không những trong giới sinh viên học sinh và trí thức, mà ngay cả giới sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng bị tác động. Trung úy Thái Luân (Nguyễn Phước Sông Hưong) ở Sư đoàn I sáng tác và cho lưu hành tập thơ Vùng Tủi Nhục tố cáo chiến tranh do Mỹ đạo diễn rất dữ dội. Bản thân em với tư cách là một sinh viên Phật tử, tranh đấu trong tinh thần bất bạo động cũng làm một loạt thơ chống bạo động, chống chiến tranh. Con người luôn nhân danh một lý tưởng gì đó để chém giết và cuối cùng cũng nhân danh một cái gì đó để giết luôn mình (bài Nhân Danh), anh em họ hàng giết nhau (bài Hai Người Lính); tất cả quá khứ để lại là tội lỗi, nghèo đói, nhọc nhằn, chiến tranh, tuổi trẻ phải biết thương nhau để cùng nhau tranh đấu cho hoà bình, làm sao “cho súng phải thở dài, cho tàu bay khóc với, cho lựu đạn im tiếng, cho đường vũ khí qua tim” (bài Tâm ca số 5 - Để lại cho em).
Tôi ước mơ (Tâm ca số 1) - Thơ Nhất Hạnh, Phạm Duy phổ nhạc.
Nhạc sĩ Phạm Duy rất nhạy cảm trước xu thế tranh đấu của tuổi trẻ đô thị lúc ấy cho nên ông đã cho ra các loạt bài Tâm ca, Tâm phẫn ca, trong đó có nhiều bài ông phổ thơ của bọn em. Mở đầu các loạt bài hát nầy là bài phổ thơ Hoà bình của Thầy Nhất Hạnh (đổi tựa đề thành Tôi ước mơ), sau đó là bài Để lại cho em, bài Nhân danh, bài Chuyện hai người lính (phổ thơ của Tâm Hằng - Nguyễn Đắc Xuân), Bi hài kịch (của Thái Luân). Nhưng nổi tiếng nhất là bài Kẻ thù ta với lời ca do nhạc sĩ Phạm Duy phát triển từ một câu thơ trong bài Chiến Tranh của Thầy Nhất Hạnh. Loạt bài Tâm Ca, Tâm Phẫn Ca được tuổi trẻ đô thị lúc đó rất hoan nghênh và hát vang trong các cuộc tụ tập mít-tin, biểu tình chống Mỹ, chống chiến tranh. Riêng Thầy Nhất Hạnh thì khi được nghe bài Để lại cho em, Thầy rất xúc động. Thầy đáp lại thế hệ của “Em” bằng cuốn sách nhỏ Nói Với Tuổi Hai Mươi.
Trong chưong mở đầu Nói với tuổi hai mươi, Thầy viết:
“Chưa bao giờ tôi khóc khi nghe người ta hát. Thế mà tối hôm đó nước mắt tôi cứ chực trào xuống trong suốt thời gian tôi ngồi nghe nhạc sĩ Phạm Duy hát bài Tâm ca số năm của anh. Buổi họp mặt gồm có chừng ba trăm thanh niên nam nữ, phần lớn là những người đang theo học trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, một số các vị giáo sư và thân hữu của trường. Bài tâm ca mang tên là “Để lại Cho Em”, những lời tự thú của một người anh bốn mươi tuổi nói với người em hai mươi tuổi. Phải, đúng là những lời tự thú. Những lời tự thú thẳng thắn, đầy ân hận, đầy đau thương; những lời tự thú làm cho xót thương dâng lên tràn ngập lòng người, người của thế hệ đi trước cũng như của thế hệ đi sau. Những lời tự thú khiến cho giận hờn và trách móc tan biến và khiến cho nguồn thông cảm được khơi mở. Trong ánh mắt của những người trẻ tuổi hôm ấy, tôi quả đã đọc thấy tha thứ và tin yêu.” (Thích Nhất Hạnh, Nói Với Tuổi Hai Mươi, Lá Bối, Sg 1965, tr. 3-
Để lại cho em (Tâm Ca số 5) Thơ Nguyễn Đắc Xuân, Phạm Duy phổ nhạc (Giữ Thơm Quê Mẹ, tập san Văn Nghệ, Lá Bối xb, số 5 / 26-10-1965, tr.57-59)
Chuyện cũ đã qua, không ngờ hơn bốn mươi năm sau, vào năm 2007 em được Trung tâm William Joiner thuộc Đại học Massachusett mời sang Boston (Hoa Kỳ) trình bày đề tài Phong trào văn thơ âm nhạc vận động hòa bình những năm 1964-1966 tại miền Nam Việt Nam. Và, cũng qua chuyến đi này các Việt Kiều cho biết đúng 40 năm trước (1967), Mục sư Martin Luther King cũng đã sử dụng một câu thơ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh được phổ nhạc trong Tâm ca làm khẩu hiệu cho một cuộc tuần hành vận động hòa bình ở Mỹ lúc ấy.
Báo Los Angeles Times, số ra ngày Chủ nhật 14-1-2007, số đặc biệt về Martin Luther King- nhà đấu tranh cho dân quyền người da đen Hoa Kỳ. Mẩu báo này có đăng tấm ảnh Mục sư Martin Luther King dẫn đầu cuộc tuần hành gồm trí thức và các nhà hoạt động chống chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Đặc biệt, phía sau đoàn tuần hành là tấm biểu ngữ lớn giăng cao viết bằng hai thứ tiếng Anh và Việt.
“Kẻ thù ta đâu có phải là người/Giết người đi thì ta ở với ai”
"Men are not our ennemies,
If we kill men, with whom shall we live ?",
và nguyên văn tiếng Việt (hai câu thơ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong Tâm ca số 7) :
« Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai?»
Cuộc tuần hành này diễn ra vào tháng 3-1967 tại thành phố Chicago - trung tâm thương mại và công nghiệp lớn thuộc Tiểu bang Illinois. Tấm ảnh nầy sau 40 năm mới được công bố và nó cũng nhắc em nhớ lại, cũng chính vào năm 1967 – cách đây đúng 42 năm, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã được chính Mục sư Martin Luther King Jr. (Nobel Hòa bình 1964) đề cử giải Nobel Hòa bình.
Có lẽ hai sự kiện này có liên quan với nhau. Nhờ môi giới của văn thơ âm nhạc hoà bình mà sau đó em và nhiều Sinh viên Phật tử khác được gần gũi Thầy Nhất Hạnh. Mỗi lần về Huế thế nào Thầy cũng gặp sinh viên Phật tử chúng em. Gặp ở chùa Từ Đàm hay gặp ở chùa Từ Hiếu. Sinh viên Phật tử đi ấn tống các sách Đạo Phật ngày nay, Đạo Phật đi vào cuộc đời, Đạo Phật hiện đại hoá, Bông Hồng cài áo….của Thầy. Sách của Thầy do Lá Bối in đẹp, nội dung dễ hiểu, thích hợp với tuổi trẻ lúc ấy nên ai cũng mua một tập cầm trên tay. Một buổi trưa hồi cuối năm 1965, Thầy Nhất Hạnh ở lại chùa Từ Đàm với sinh viên Phật tử, nhân đó Thầy cho biết Thầy đang quyên góp tiền bạc để xây dựng Trường Thanh niên phụng sự xã hội, anh Vĩnh Kha (Đoàn trưởng Sinh viên Phật tử) biết rõ Thầy có quan hệ với nhiều tổ chức xã hội của Mỹ nên thưa với Thầy rằng:
-“Sao Thầy không xin các tổ chức xã hội của Mỹ ít đô-la để làm trường mà lại đi quyên góp đồng doi đồng mót của Phật tử làm gì cho mệt vậy ?”.
Thầy liền nghiêm sắc mặt nhìn bọn em và bảo:
- “Mình làm công tác xã hội mà lấy tiền của Mỹ để làm trường thì Mặt trận Giải phóng họ sẽ cho người về đốt trường ngay. Và, các em cũng nên thận trọng làm gì mà để người Mỹ họ nghi là Việt Cộng thì họ cũng sẽ bắt ngay. Cho nên muốn giúp dân, muốn đấu tranh lâu dài cho thống nhất đất nước, cho hòa bình dân tộc thì phải giữ sao cho được sự thuần túy của Phật giáo !”.
Tuổi trẻ, bọn em rất bồng bột, đem cái thân mình ra đặt cược cho các cuộc đấu tranh. Khi đấu tranh không tính đến hậu quả cho nên không có đường rút những khi đấu tranh không thành công. Lời dạy của Thầy Nhất Hạnh rất thấm thía. Em đã lấy ý kiến của Thầy làm châm ngôn hành động những tháng ngày còn đấu tranh ở các đô thị sau đó.
Còn nữa...Tâm Hằng Nguyễn Đắc Xuân