Triều Lê, khi ổn định nước nhà, mở mang bờ cỏi, đã có nhiều công thần góp sức cả văn lẫn võ. Tạ Công Luyện là một trong những công thần đó. Lê Thánh Tông cử binh đánh Chiêm, bắt được vua Chiêm là Trà Toàn, và hàng vạn tù binh Chiêm Thành, trong chuyến thân chinh đó, Tạ Công Luyện đã sát cánh cùng vua Lê Thánh Tông lập nên chiến công hiển hách.
Trà Toàn sau khi lên ngôi kế thế Trà Duyệt, đã sai sứ thần cầu viện nhà Minh, đem quân đánh úp Hóa Châu, vì thế, vua Lê Thánh Tông quyết định đánh chiếm Chiêm Thành, sáp nhập vào Đại Việt. Năm 1470, vua giao cho Tạ Công Luyện thống lĩnh quân đội.Tháng 3/1471, kinh đô Đồ Bàn thất thủ, hơn 30 ngàn người bị bắt, trong đó có vua Trà Toàn. Tướng Chiêm là Bô Trì Trì cử sứ đến cống nạp triều Lê và xưng thần với Đại Việt.
Từ đó, vua Lê đã Việt hóa dân Chiêm và tiếp tục mở mang bờ cỏi về hướng Tây. Sau những thắng lợi đó, vua đã ban thưởng cho các quan văn võ một cách tương xứng. Một minh quân tài ba và kiến thức uyên bác, có tinh thần văn chương; bộ luật Hồng Đức là bộ luật thành văn đầu tiên của dân tộc ta cũng được phát sanh từ thời đó. Tạ Công Luyện đuợc vua sắc phong cho danh hiệu: “ Tướng Công Khâm Mệnh Luyện Khê Hầu”, cuối năm 1471, được vua giao Phó sứ đồn điền, với nhiệm vụ di dân lập ấp, khai hoang từ Quảng Bình, Quảng Trị Thừa Thiên đến Nghệ An để bình định cư dân và sản xuất quân lương cho vương triều. Ngài chọn phía Tây Nam, Diễn Châu đặt bản doanh để lập trang trại. Được Triều Lê đặt cho tên là “ Đồn Điền Biệt Sở Tộc” Triều Nguyễn ban cho là “ Lạc Sở Thôn Bút Điền Xã”. Với sự khai khẩn trong 10 năm, đã lên 400 mẫu, thu hút các tộc họ Nguyễn,Trần, Võ Trương… đến lập nghiệp, biến nơi nầy thành mãnh đất trù phú từ Diễn Cát đến Diễn Lợi. Ngoài ra còn một số nơi khác chưa kể đến.
Với công trạng lúc thời chiến đem lại thắng lợi, vào thời bình đem lại an cư lạc nghiệp cho nhân dân, nên khi Tạ Công Luyện qua đời vào ngày 05/4/1510, triều đình cho quốc sư địa lý đến tìm đất mai táng tại Diễn Thọ. Triều đình cũng sắc phong là “Bổn Cảnh Thành Hoàng”, “Phó sứ Luyện Khê Hầu Dũng Lượng Danh uy”, “Gia tặng Thành Hoàng Tuấn Lương Dực Bão Trung Ứng Tôn Thần”. Đến thời Bảo Đại sắc phong “Thượng Đẳng Thần”. Hậu duệ tộc Tạ được vua Minh Mang sắc tứ “Hiếu Hạnh Khả Phong”. Qua các triều đại đều tán dương công trạng của Tổ Tạ tiên sinh. Cũng thế, ngày nay, tại Nghệ An tên Tạ Công Luyện được đặt ở TP Vinh, phường Hồng Sơn. Tổ đường và Lăng mộ được nhà nước công nhận di tích lịch sử văn hóa.
Năm 1818 tổ đường đặt ở phía Nam làng sở. Đến 1872 dời về phía Tây làng sở. Năm 1937 gồm 7 tòa nhà, nhưng năm 1945 bị trưng dụng một số cho cuộc chiến. Sau ngày hòa bình. 1989, giòng Tộc Tạ khôi phục; hàng năm giổ thần tổ vào rằm tháng giêng. Ba năm một lần, do xã tổ chức lễ Thành hoàng bổn cảnh. Năm 2002 khánh thành trùng tu quần thể đền thờ diện tích 2000m2. Giòng tộc Tạ truyền đến đời thứ 19. Con cháu họ Tạ có những liệt sĩ thì ngày nay cũng không thiếu người thành đạt trong xã hội và ở nước ngoài. Chính vì thế mà những hậu duệ thảo hiếu đã không ngần ngại bỏ ra hàng tỷ đồng để mua đất khôi phục quần thể di tích mộ thành tổ Tạ Công Luyện. Họ có tính cộng đồng và giàu lòng nhân hậu, biến thành truyền thống của nhân dân xứ Nghệ.
Nghệ An ngày nay, Tộc Tạ là giòng họ lớn nhất, đông nhất. Trong thời chiến, từ đường tộc Tạ và các nhà thờ kito vẫn còn duy trì được cơ sở vật chất, trong khi đó, trên 400 ngồi chùa hoàn toàn bị xóa sổ theo chiến dịch cải cách ruộng đất, làm gương đầu tiên trên quê hương Bác!
Nghệ An là tỉnh lớn nhất nước, thuộc Bắc Trung Bộ. Danh từ Nghệ An xuất hiện từ năm Thiện Thành thứ 2 đời Lý Thái Tông(1030) thay cho Hoan Châu. Nghệ An cũng là vùng đất được Quang Trung chọn làm nơi dưỡng quân, luyện tập, chiêu nạp binh mã để thần tốc ra đánh quân Thanh năm Kỷ dậu, một chiến tích và địa danh vang dội: Ngọc Hồi, Đống Đa (1789). Nghệ An cũng dấy lên phong trào chống Pháp đứng hàng đầu cả nước. Vua Quang Trung có ý định chọn Nghệ An làm kinh đô tương lai của Tây Sơn nên gọi là Trung Đô. Ở thành phố Vinh còn Phượng Hoàng Trung Đô, lưu dấu của Tây Sơn.
Nghệ An có 4 mùa rõ rệt. Diện tích 16.487km2. Dân số gần bốn triệu. Đền thờ Nguyễn Du và nhiều danh nhân tồn tại danh tiếng với thời gian đã đem lại cho Nghệ An một địa danh khá nổi tiếng. Ngày 21-22-23/4/2011 nhằm ngày 19- 20-2/2011 âm lịch. Hậu duệ tộc Tạ đã tổ chức trai đàn chẩn tế cầu siêu cho giòng tộc, tại thôn Tân Hương, xã Diễn Cát, huyện Diễn Châu, cách TP Vinh gần 50km, do ĐĐ Tâm Hiệp điều hành, dưới sự chứng minh của HT Minh Cảnh, tham dự có ĐĐ Nguyên Hiền, ĐĐ Văn Phong và ban kinh sư Huế, một số sư ni phía Bắc cũng có mặt.
Hàng trăm con cháu tộc Tạ đã có mặt. Hơn nửa thế kỷ vắng bóng đạo Phật, quần chúng còn ngỡ ngàng trước hình bóng Tăng Ni sinh hoạt, họ lúng túng trong việc xưng hô ngoài hai tiếng anh và bác. Chính vì thế, thầy Tâm Hiệp phải điều động một số Phật tử phía Bắc ra giúp việc và làm cỗ chay. Gia đình chị Thủy, con cháu họ Tạ cũng tất bật không kém. Lần đầu tiên Nghệ An nói chung và giòng họ Tạ nói riêng có một Trai đàn chẩn tế uy nghi như thế. Cũng là cư dân địa phương đầu tiên được thưởng thức món chay lạ miệng.
Cháu con tộc Tạ, kể cả những bậc trưởng thượng cao niên, lấy làm mãn nguyện khi đáp đền công ơn to lớn của tổ tiên bằng một đại đàn như thế, mà đã nhiều thế kỷ, chưa có dịp tỏ rõ ân hậu hiếu của cháu con. Nghệ An và tộc Tạ như gắn liền nhau khi cư dân địa phương nhắc đến. Những con cháu tha hương xứ người, có lẽ cũng hãnh diện và ấm lòng về một giòng tộc đã mở mang bờ cỏi một thời cùng vua chúa, khi biết được trên quê hương, còn nhớ đến tổ tiên.
Cho dù Thần tổ Tạ Công Luyện gốc gác từ đâu, vẫn là một công thần của đất nước trong thời chiến lẫn thời bình. Một tấm gương cho con cháu luôn gắn bó và noi theo mà ngày nay giòng tộc Tạ vẫn tiếp tục góp phần xây dựng quê hương.
MINH MẪN 23/4/2011