Đức Phật Câu La Tôn Đại có dạy rằng: Quanh quẩn trên hoa, con ong chỉ lấy mật hoa mà thôi, chớ không phá màu hoa và mùi hoa. Cũng như thế, Phật tử ở chung trong đại chúng, chớ nên làm nặng lòng ai hết. Chớ xem coi họ có làm hoặc không làm, mà phải tự xét mình, xem lại coi đạo hạnh của mình có vẹn toàn hay không.
1.Đức Phật Tỳ Bà Thi có dạy rằng: Bền chịu với các sự nhẫn nhục, ấy là giới hạnh đầu tiên mà Chư Phật hằng khuyên chúng sinh . Người đã phát tâm Bồ tát mà còn phiền giận, thì không đáng với tiếng Phật tử.
2.Đức Phật Thi Khí có dạy rằng: Người ta có mắt lanh, bao giờ cũng vượt qua khỏi hố sâu thẳm; Cũng như thế, bậc Phật, Thánh có trí tuệ thoát khỏi các nạn khổ.
3. Đức Phật Tỳ Xá Phù có dạy rằng: Tránh nói hành và tật đố, giữ giới hạnh, vừa lòng với sự đủ dùng về ăn uống; Bao giờ cũng an vui tự tại trong tịnh thất thanh vắng của mình, bền chí về bổn nguyện và cố tiến thủ. Ấy là các lý cốt yếu mà Chư Phật đã ban truyền.
4. Đức Phật Câu La Tôn Đại có dạy rằng: Quanh quẩn trên hoa, con ong chỉ lấy mật hoa mà thôi, chớ không phá màu hoa và mùi hoa. Cũng như thế, Phật tử ở chung trong đại chúng, chớ nên làm nặng lòng ai hết. Chớ xem coi họ có làm hoặc không làm, mà phải tự xét mình, xem lại coi đạo hạnh của mình có vẹn toàn hay không.
5. Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni có dạy rằng: Chớ để cái tâm lạc bậy, hãy siêng học các giới luật của Phật Thánh. Như vậy người ta sẽ xa lánh mọi sự buồn, và tiến tới Niết bàn.
6.Đức Phật Ca Diếpcó dạy rằng: Chớ làm điều gì ác, phải làm các điều lành, cái sở ý của ngươi phải cho trong sạch luôn luôn. Chư Phật đều dạy như vậy.
7. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy rằng: Hãy giữ lời nói của ngươi, hãy làm cho tâm ý của ngươi trở nên thanh bạch, đừng làm một việc gì sái quấy. Giữ ba điều ấy là theo chánh Đạo, đó là đạo của Chư Phật.
Đức Phật Tỳ-Bà-Thi ( Tàu dịch là Thắng Quán, Chủng Chủng Quán, Chủng Chủng Kiến) Ngài là Đức Thế Tôn thứ 998 thuộc kiếp Trang Nghiêm đời quá khứ. Ngài nói kệ rằng :Nhân tòng vô tướng trung thụ sinhDo như huyễn, do chư hình tượng Huyễn nhân tâm thức bản lai vô Tội, phúc giai không vô sở trụ. DịchThân thụ sinh từ trong vô tướngDối trá như mọi bóng in hìnhNgười tâm thức huyễn vẫn là khôngTội phúc đều không, không sở trụ.Đại ý bài kệ nói : Con người từ chỗ vô tướng sinh ra , cũng ví như hình bóng, không có thực. Con người đã là giả dối không thực thì tâm và thức kia , xưa và nay cũng đều là không cả. Tội và phúc cũng là không, không có chỗ trụ.(TT.Tuệ Hải) NghĩaNgười ta từ trong vô tướng sinh raNên như huyễn, như hình bóngTâm thức người huyễn vốn là khôngTội phúc cúng không, không chỗ trụ. Kinh Trường A Hàm nói : Khi Đức Phật này ra đời, người ta thọ tám vạn tuổi. Ngài thuộc dòng Sát-Đế-Lợi (Vua chúa), họ Câu Ly Nhã. Thân Phụ là Bàn Đầu, Mẫu Hậu là Bàn Đầu Bà Đề. Ngài thành đạo nơi gốc cây Ba Ba La và thuyết pháp trong ba hội. - Hội thứ nhất độ được 168.000 đệ tử - Hội thứ hai độ được 100.000 đệ tử- Hội thứ ba độ được 80.000 đệ tử.Như vậy ba hội, tổng cộng Ngài độ được 348.000 đệ tử. Ngài có hai người đệ tử xuất sắc : Một người tên là Kiển Trà, một người tên là Đề Xá. Một người thị giả tên là Vô Ưu và một người con tên là Phương Ứng. Đức Phật Thi Khí là đức Thế Tôn thứ 999, kiếp Trang Nghiêm đời quá khứ. Ngài nói kệ rằng Khởi chư thiện pháp bản thị huyễn Tạo chư ác nghiệp diệt thị huyễn Thân như tụ mạt, tâm như phongHuyễn xuất vô căn, vô thực tính Dịch Khời mọi pháp lành vốn là huyễn Gây bao ác nghiệp cũng là huyễn Thân như đống bụi, tâm như gióHuyễn xuất không căn, không thực tính.Đại ý bài kệ nói :Hết thảy viêc thiện, ác ở thế gian khởi ra đều là giả dối, không thực, ngay cả thân tâm cũng là huyễn hoặc. Thân này như đống bụi gom lại. Tâm này chợt có chợt không, chợt đến chơt đi như gió. Tất cả cái huyễn này xuất ra đều không có căn cứ, không có thực tính .(TT.Tuệ Hải)Kinh Trường A Hàm nói: Khi đức Phật này xuất hiện ra đời, con người thọ bảy vạn tuổi. Ngài thuộc dòng Sát Đế Lợi, họ Câu Ly Nhã. Phụ hoàng là Minh Tướng, mẫu hậu là Quang Diệu. Ngải ở trong thành Quang Tướng , thành đạo nơi gốc cây Phân Đà Lỵ . Ngài thuyết pháp ba hội - Hội thứ nhất độ 100.000 người đệ tử.- Hội thứ hai độ 80.000 người đệ tử.- Hội thứ ba độ 70.000 người đệ tử. Tổng cộng trong ba hội, Ngài độ 250.000 người đệ tử. Ngài có hai người đệ tử xuất sắc : Một người tên là A-Tỳ-Phú, một người tên là Sam-Bà-Bà và một người thị giả tên là Nhẫn Hạnh, Một người con tên là Vô Lượng.Đức Phật Tỳ-Xá-Phù là đấng Thế Tôn thứ một nghìn kiếp Trang Nghiêm đời quá khứ. Ngài nói kệ rằng Giả tá tứ đại dĩ vi thân Tâm bản vô sinh nhân cảnh hữu Tiên cảnh nhược vô, tâm diệc vôTội phúc như huyễn khởi, diệt diệtDịchGá nhờ bốn đại gọi là thânTâm vốn không sinh bởi cảnh trầnCảnh trước nếu không tâm nào cóTội phúc chiêm bao khởi lại tan. Đại ý bài kệ này nói Thân này do bốn đại: đất, nước, gió, lửa giả hợp mà có. Bản tâm kia nó vốn không, nhân ngoại cảnh mà có. Nếu cảnh trước đã không thì tâm kia cũng không có. Thân, tâm và cảnh đã không thì tội với phúc cũng chỉ là huyễn hóa. Sự khởi diệt cũng bị tiêu diệt. (TT.Tuệ Hải)NghĩaGá nhờ tứ đại gọi là thânTâm vốn vô sinh, nhân cảnh có.Cảnh trước nếu không, tâm cũng khôngTội, phúc như huyễn khởi, diệt cũng diệtKinh Trường A Hàm nói: Đức Phật này khi Ngài xuất hiện ra đời , người ta thọ 60.000 tuổi. Ngài thuộc dòng Sát Đế Lợi, họ Câu Lỵ Nhã . Phụ hoàng là Thiên Đăng, mẫu hậu là Xưng Giới. Ngài ở trong thành Vô Dụ, và thành đạo nơi gốc cây Bà La. Ngài thuyết pháp trong hai hội :- Hội thứ nhất độ được 70.000 người đệ tử.- Hội thứ hai độ được 60.000 người đệ tử.Tổng công hai hội độ được 130.000 người đệ tử. Ngài có hai người đệ tử xuất sắc, một người tên là Phù Du, một người tên là Uất-Đa-Ma. Lại có một người thị giả tên là Tịch Diệt và một người con tên là Diệu Giác.Đức Phật Câu Lưu Tôn, ngài là đấng Thế Tôn thứ nhất thuộc Hiền Kiếp, đời hiện tại. Ngài nói kệ rằng Kiến thân vô thực thị Phật thân Liễu tâm như huyễn thị Phật huyễn Liễu đắc thân, tâm bản tính không Tư nhân dữ Phật hà thù biệt.DịchThấy thân không thực là Phật thânBiết tâm như huyễn là Phật huyễn Biết rõ thân, tâm tính vốn không Người đó với Phật nào sai khác. Kinh Trường A Hàm nói: Khi đức Phật này ra đời, người ta thọ 40.000 tuổi. Ngài thuộc dòng Bà-La-Môn, họ là Ca-Diếp. Phụ Hoàng là Ngài Lễ Đắc, Mấu Hậu là Thiện Chí. Ngài ở trong thành An Hòa , thành đạo dưới gốc cây Thi-Lỵ-Sa. Ngài thuyết pháp một hội, độ được 40.000 người đệ tử. Có hai người xuất sắc, một người tên là Tát – Ny, một người tên là Tỳ - Lâu. Ngài có một người thị giả tên là Thiện Giác, và một người con tên là Thượng Thắng.Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, ngài là đấng Thế Tôn thứ hai thuộc về Hiền Kiếp đời hiện tại . Ngài nói kệ rằng Phật bất kiến thân tri thị Phật,Nhược thực hữu tri biệt vô Phật Trí giả năng tri tội tính không Thản nhiên vô bố ư sinh tử. Dịch Phật chẳng thấy biết mình là Phật Nếu thực hay có Phật khác rồiTrí nhân nên biết tội tính không Thản nhiên nào sợ nơi sinh tử. Đại ý bài kệ nói: Phật là người đã giác ngộ hoàn toàn, thực tu thực chứng Phật quả , nhưng không chấp kiến cho mình là Phật . Nếu còn chấp có thân mình là Phật , tức là còn có phân biệt. Bởi vậy người trí giả khi hiểu được tội tính vốn không thì đối với sinh tử vẫn thản nhiên không có gì là sợ sệt. (TT.Tuệ Hải)
Nghĩa Phật chẳng thấy thân, biết là Phật Nếu thực có biết , chẳng phải PhậtNgười trí hay biết tội tính khôngThản nhiên nào sợ gì sinh tử. Kinh Trường A Hàm nói; Khi đức Phật này xuất hiện ra đời, người ta thọ 30.000 tuổi. Ngài thuộc dòng Ba-La-Môn, họ là Ca-Diếp. Phụ Hoàng tên Đại-Đức, Mẫu Hậu tên Thiện Thắng. Ngài ở trong thành Thanh Tịnh và thành đạo dưới gốc cây Ưu-Đàm Bà-La Ngài thuyết pháp một hội, độ được 30.000 người đệ tử, trong hàng đệ tử có hai người xuất sắc. Một người tên là Thư-Bà-Na, một người tên là Uất-Đa-Lâu , lại có một người thị giả tên là An-Hòa và một người con tên là Đạo-Sư.Đức Phật Ca Diếp. Ngài là đấng Thế Tôn thứ ba thuộc về Hiền Kiếp, đời hiện tại. Ngài nói kệ rằng Nhất thiết chúng sanh tánh thanh tịnh Tòng bản vô sanh vô khả diệt Tức thử thân tâm thị huyễn sinh Huyễn hóa chi trung vô tội, phước. Dịch Chúng sinh hết thảy tính trong lànhXưa nay không diệt cũng không sanh Thân tâm này huyễn sinh mà cóTrong huyễn hóa tội, phước đều không.Đại ý bài kệ nói: Hết thảy chúng sinh tánh vốn thanh tịnh. Tánh thanh tịnh ấy không sanh nên cũng không diệt. Còn cái thân tâm này do vọng huyễn sinh ra. Trong cái huyễn vọng ấy không có tội cũng không có phước. (TT.Tuệ Hải)Kinh Trường – A – Hàm nói khi đức Phật này xuất hiện ra đời, người ta tho 20.000 tuổi. Ngài thuộc dòng Bà-La-Môn , họ là Ca – Diếp. Phụ Hoàng tên Phạm Đức, Mẫu Hậu tên Tài - Chủ. Ngài ở trong thành Ba-La-Nại và thành đạo dưới gốc cây Ny-Câu-Luật. Ngài thuyết pháp một hội độ được 20.000 người đệ tử. Ngài có hai người đệ tử xuất sắc: Một người tên là Đề-Xá, một người tên là Ba-La-Bà. Ngài có một người thị giả hầu cận tên là Thiện-Hữu, và một người con tên là Tập-Quán.Đức Phật Thích Ca Mâu Ni , Ngài là đức Phật thứ tư thuộc Hiền Kiếp, đời hiện tại. Ngài giáng sinh vào dòng Sát-Đế-Lợi, họ là Thích-Ca, hiệu là Cồ-Đàm. Phụ Hoàng là Tịnh Phạn Vương, Mẫu Hậu là Ma-Da .Ngài giáng sinh vào ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Dần (theo Trung Hoa. Còn theo Án Độ thì ngài giáng sinh ngày trăng tròn 15/4) đời vua Chiêu Vương nhà Chu, tại vườn Lâm-Tỳ-Ny, thành Ca-Tỳ-La-Vệ, nước Ấn Độ.Khi Ngài giáng sinh thì háo quang tỏa khắp nơi , mặt đất mọc lên những bông sen vàng tỏa hương thơm ngát. Ngài bước đi bảy bước, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, phát ra tiếng to lớn như sư tử gầm nói rằng “Thiên thượng, thiên hạ duy ngã độc tôn”. Nghĩa là trên trời, dưới đất chỉ có ta (Phật) là tôn quí hơn cả. Năm 19 tuổi ngài xuất gia, tu khổ hạnh sáu năm, đến năm 30 tuổi thành đạo nơi gốc cây Bồ-Đề.Ngài chuyển xe pháp Tứ-Đế, nói ra ba tạng diệu pháp . Ngài thuyết pháp trong một hội độ cho 1250 đệ tử. Có hai đệ tử xuất sắc, một người tên Xá Lợi Phất, Một người tên Mục-Kiều-Liên. Lại có một người thị giả là A-Nan-Đà và một người con là La-Hầu-La. Ngài thuyết pháp 49 năm . Về sau ngài đem chính pháp trao truyền cho tôn giả Ca-Diếp . Ngài bảo rằng - Nay ta đem chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm phó thác cho ông, ông hãy giữ gìn lấyRồi Ngài nói kệ rằng Pháp bản pháp vô pháp Vô pháp pháp diệt pháp Kim phó vô pháp thờiPháp pháp hà tằng pháp Dịch Pháp và bổn pháp vốn không Vô pháp với pháp cũng đồng như nhau Nay đem vô pháp truyền trao Pháp pháp với pháp há nào khác chi. Đại ý bài kệ nói : Các pháp xưa nay vốn là không, nhưng pháp không ấy cũng là pháp. Nếu chấp là thực có tức thường kiến, nếu chấp là thực không tức đoạn kiến. Nay trao truyền cái vô pháp, thì mọi pháp vẫn chuyển biến không ngừng. (TT.Tuệ Hải)Nghĩa Pháp này vốn là pháp KhôngPháp không cũng là pháp Nay trao truyền pháp không Mọi pháp, tất cả pháp. Ngài nói kệ xong, ở nơi gốc cây Sa-La lặng lẽ vào Niết-Bàn Các đệ tử dùng các cây gỗ thơm để làm lễ Trà Tỳ (hỏa táng) Khi ấy kim quan từ nơi hỏa đàn bỗng nhiên hiện lên trên hư không, cao bằng bảy cây đa-la, đi đi, lại lại ở trên hư không rồi dùng lửa tam muội tự đốt cháy . Ngọc Xá-Lợi đong được khoảng tám hộc bốn mươi. Các đệ tử kiến lập bảo tháp để cúng dàng. Ngài nhập diệt năm đó là năm Nhâm Thân đời vua Mục Vương nhà Chu.Có thể biết sát trần tâm niệm
Có thể uống nước cả đại dương
Hư không có thể đo lường
Công đức Chư Phật vô phương nghĩ bàn
Trong vũ trụ không ai hơn Phật
Mười phương xa không thể sánh bằng
Thế gian con thấy hết rằng
Tất cả không có ai bằng Thế TônNAM MÔ CHƯ PHẬT THẾ TÔN