24 đến 25-12-1944: Chiến thắng Phay Khắt và Nà Ngần của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng.
Từ căn cứ địa Cao Bằng, ngay sau lễ thành lập, Đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy đã xuất quân
thực hiện chỉ thị “phải đánh thắng trận đầu” của lãnh tụ tụ Hồ Chí
Minh.
17g ngày 24-12-1944, bằng một trận đánh táo bạo và mưu
trí, đơn vị đã tiêu diệt đồn Phay Khắt (đóng tại xã Cam Lộng, Nguyên
Bình, Cao Bằng) và 7g sáng hôm sau (25-12) lại tiêu diệt tiếp đồn Nà
Ngần (cách Phay Khắt 15 km) diệt hai tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ
binh lính, tịch thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.
Chiến thắng Phay Khắt - Nà Ngần đã mở đầu cho truyền thống Quyết chiến quyết thắng của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Trận Phay Khắt và Nà Ngần ngày 25 và 26-12-1944 là 2
trận đánh đầu tiên của đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiêu
diệt 2 đồn nhỏ là đồn Phai Khắt và đồn Nà Ngần, do đích thân Võ Nguyên
Giáp chỉ huy.
Làng Phay Khắt thuộc xã Tam Lộng, tỉnh Cao Bằng. Đồn của Pháp ở đây có gần 20 binh lính do một đồn trưởng người Pháp chỉ huy.
5g chiều 25-12-1944, các đội viên đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân đóng giả lính khố xanh, do một viên đội "sếp" dẫn
đầu bất ngờ tập kích, bắt sống 17 lính trong đồn và một viên cai. Đúng
lúc đó đồn trưởng người Pháp cưỡi ngựa lên châu trở về cùng vài binh
lính đi theo không mang súng. Một đội viên đã nổ súng giết chết viên đồn
trưởng. Trận đánh diễn ra trong vòng mươi phút.
Đồn Nà Ngần cách Phay Khắt khoảng 25 km, có 22 lính khố
đỏ do hai sĩ quan người Pháp chỉ huy. Sáng sớm 26-12, bộ đội Việt Minh
cải trang làm lính dõng và lính tập, dùng trang phục của lính Pháp mới
lấy được ở Phay Khắt tiến vào bắn chết 4 người và bắt sống số còn lại.
Hai sĩ quan chỉ huy người Pháp không có mặt trong đồn vì đã đi lên tỉnh.
Phần lớn tù binh được thả về quê quán.
Theo hồi ký đại tướng Võ Nguyên Giáp và tài liệu quân
sử Quân đội nhân dân Việt Nam thì tại Nà Ngần, Việt Nam Tuyên truyền
Giải phóng quân tiêu diệt 5, bắt sống 37 quân nhân. Những người này được
cho lựa chọn hoặc theo Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân hoặc phải
trở về quê sinh sống. Đa số chọn về quê, và được cấp giấy đi đường và
một số tiền nhỏ.
Phay Khắt, Nà Ngần và những chiến công oanh liệt
Cách nay 65 năm, theo Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh,
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân
dân Việt Nam, được thành lập. Chiến thắng Phay Khắt, Nà Ngần và những
chiến công oanh liệt được ghi vào những trang chói lọi của lịch sử dân
tộc ta.
Ngay sau khi ra đời, thực hiện Chỉ thị của lãnh tụ Hồ
Chí Minh, “trận đầu nhất định phải thắng”, đội Việt Nam Tuyên truyền
Giải phóng quân đã lập chiến công oanh liệt: Ngày 25-12-1944, hạ đồn
Phay Khắt; ngày 26-12-1944, hạ đồn Nà Ngần. Những chiến thắng này báo
hiệu cho toàn dân tiến lên trên con đường vũ trang tranh đấu để chuẩn bị
cho thời kỳ đứng lên giành lấy chính quyền, giành lại độc lập, tự do
cho Tổ quốc.
Hai chiến thắng đó đã mở đầu truyền thống đánh thắng
trận đầu, đánh liên tục và nhiệm vụ nào cũng hoàn thành của quân đội ta.
Và những tháng ngày “trứng nước” đó, đội quân 34 chiến sĩ nhanh chóng
phát triển trong nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, mở rộng cơ sở chính trị
trong quần chúng, hợp nhất với Đội Cứu quốc quân thành Việt Nam giải
phóng quân, cùng các “đội quân đàn em” khác trên mọi miền đất nước đóng
vai trò nòng cốt hỗ trợ cho toàn dân ta vùng dậy khởi nghĩa giành thắng
lợi.
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công. Ngày 2-9-1945, tại
Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc Tuyên ngôn độc lập, chính thức tuyên bố với toàn thể quốc dân Việt
Nam và các nước trên thế giới: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần, lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.
Để giữ vững quyền tự do và độc lập vừa giành được, dân
tộc ta đã phải trải qua hai cuộc kháng chiến ròng rã 30 năm (1945-1975)
đánh thắng Pháp và Mỹ, đều có tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự hơn
ta gấp nhiều lần.
Khi bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp,
quân đội ta ước chừng tám vạn người mà thực chất mới chỉ là đội quân du
kích, trang bị vũ khí rất thiếu thốn, thô sơ. Vừa xây dựng, vừa chiến
đấu, đội quân ấy liên tiếp mở các cuộc phản công và tiến công trên khắp
chiến trường: đập tan cuộc càn quét, cướp phá của gần hai vạn quân Pháp
khi Pháp tiến công Việt Bắc trong Thu Đông 1947; tập trung lực lượng mở
chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 đập vỡ tuyến phòng thủ đường số 4 mà
thực dân Pháp cố công xây dựng, chấm dứt thời kỳ ta buộc phải chiến đấu
trong vòng vây.
Tiếp đó, quân ta mở ba chiến dịch tiến công: chiến dịch
Trần Hưng Đạo, chiến dịch Hoàng Hoa Thám, chiến dịch Hà Nam Ninh; tiến
công gần 30 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh và các đơn vị kỹ thuật của quân
Pháp tại mặt trận Hòa Bình và giành thắng lợi vang dội.
Trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, để
đập tan nỗ lực quân sự cuối cùng của phía Pháp, Đảng ta chủ trương điều
một bộ phận chủ lực mở các cuộc tiến công nhằm những hướng địch sơ hở ở
miền rừng núi, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích vùng sau lưng
địch ở đồng bằng. Lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta đã thực hiện
thành công chủ trương chiến lược này, giành thắng lợi to lớn và toàn
diện trong tổng tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là
chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, góp phần
quyết định buộc Pháp phải ký Hiệp định Geneve, chấm dứt tham vọng tái
chiếm Đông Dương, sau chín năm ròng rã lao vào cuộc chiến tranh xâm lược
và chịu nhiều tổn thất nặng về sinh lực, của cải và uy tín.
Nguồn: Việt Nam những sự kiện lịch sử