Chương XIV
CÕI TIÊN, TRỜI và A-TU-LA
CÕI TIÊN
Thường các kinh nguyên thủy (thời kỳ đầu) thì nói có sáu đạo, nhưng các kinh đại thừa thì thêm một đạo nữa là cõi tiên. Như vậy, chúng ta có bảy cõi là cõi trời, tiên, a-tu-la, người, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
Phần trước đã nói về địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, chương này sẽ nói đến ba cõi là cõi tiên, cõi trời và a-tu-la.
Tiên là những chúng sinh trên loài người, nhưng không nương theo giới định tuệ, không biết tam-ma-đề, lại riêng tu theo vọng niệm, để tâm củng cố hình hài, vào trong rừng núi, những chỗ người ta không đến được, thành mười thứ tiên. Mười thứ tiên như sau:
“A Nan, các chúng sinh kia, kiên cố dùng đồ bổ mà không dừng nghỉ, khi đạo ăn được thành tựu, thì gọi là Địa hành tiên.
Kiên cố dùng cỏ cây mà không dừng nghỉ, khi đạo thuốc được thành tựu, thì gọi là Phi hành tiên.
Kiên cố dùng kim thạch mà không dừng nghỉ, khi đạo hóa chất được thành tựu, thì gọi là Du hành tiên.
Kiên cố làm những động tác mà không dừng nghỉ, khi khí tinh được thành tựu, thì gọi là Không hành tiên.
Kiên cố luyện nước bọt mà không dừng nghỉ, khi nhuận đức được thành tựu, thì gọi là Thiên hành tiên.
Kiên cố hấp thụ tinh hoa mà không dừng nghỉ, khi hấp thụ được thành tựu, thì gọi là Thông hành tiên.
Kiên cố làm thuật phù chú mà không dừng nghỉ, khi thuật pháp được thành tựu, thì gọi là Đạo hành tiên.
Kiên cố chuyên chú tâm niệm mà không dừng nghỉ, khi chuyên niệm được thành tựu, thì gọi là Chiếu hành tiên.
Kiên cố về thủy hỏa giao cấu mà không dừng nghỉ, khi cảm ứng được thành tựu, thì gọi là Tinh hành tiên.
Kiên cố tập luyện biến hóa mà không dừng nghỉ, khi giác ngộ được thành tựu, thì gọi là Tuyệt hành tiên”.
“A Nan, các vị ấy đều ở trong loài người mà luyện tâm, tuy không tu chính giác, nhưng riêng được lẽ sống, thọ ngàn vạn tuổi, nghỉ ở trong núi sâu hoặc trên đảo giữa bể cả, cách tuyệt chỗ người ở; đó cũng là vọng tưởng luân hồi lưu chuyển. Nếu không tu phép Tam muội, thì khi quả báo hết rồi, trở lại tản vào trong lục đạo”[1] .
Tiên là những người bỏ chốn thế gian ồn náo, vinh hoa phú quý, danh lợi thị phi, ẩn mình trong hang, trong núi, hải đảo, nơi mà loài người không đến được để tu theo những pháp củng cố hình hài, trường thọ sống lâu, chớ không tu tập theo giới định tuệ.
Do tu nhân riêng biệt thành quả hư vọng, do tu luyện pháp trường sanh nên tiên cũng có thần thông, khinh an, sống thọ, nhưng dù có thọ đến đâu thì tiên vẫn còn bị chi phối bởi luật sanh tử và cũng có ngày thân này phải tan mà đọa lạc.
1. Địa hành tiên: đồ bổ của những người tu tiên, chỉ có họ mới biết với nhau, mình mà dùng nhiều đồ bổ thì nó thành độc, phải có những món thuốc đặc biệt. Một số vị kiên cố dùng đồ bổ, chuyên dùng những loại chất bổ không dừng nghỉ. Khi chất bổ này thành tựu thì vị tiên đó đi trên mặt đất rất nhẹ nhàng vậy.
2. Phi hành tiên: vị này nếm theo vị của từng loại cỏ cây, biết loại nào trị bịnh nào, loại dược thảo nào dùng vào khiến cơ thể khoẻ mạnh, khoan khoái, bình an. Như các ông lang thầy thuốc, cắt, phơi khô hay sao cây cỏ lên, rồi nghiền nát thành bột, bào chế dùng để trị bịnh. Cũng thế do chuyên dùng cỏ cây, các loại thuốc dược thảo nên cơ thể các vị tiên rất khoan khoái an ổn. Và tiên luyện như vậy liên tục, không dừng nghỉ. Khi thuốc này thành tựu thì tiên phi hành như bay, đi như bay.
3. Du hành tiên: trong đá có nhiều loại ngọc, vàng, kim khí, đá ngọc rồi tiên mài, nấu, ngâm, bào chế các chất này thế nào đó để họ dùng được. Kiên cố bền tâm lâu dài dùng các loài bào chế này không dừng nghỉ. Khi công phu thành tựu thì vị này sẽ đi nhanh như chạy, để thấy cái khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, cứng cáp của cơ thể.
Ở đỉnh núi Thị vải, Bà-rịa, Vũng Tàu, có một người sống ở đấy. Chỗ ở của ông chỉ là một cái lều, nằm ngủ ở trên một cái chõng và trồng mấy cây bắp rau để ăn. Ông làm nghề đi gánh thuê buôn bán dưới chân núi. Thế cho nên buổi sáng ông phải từ đỉnh núi đi xuống chợ gánh thuê để lấy tiền sinh sống. Đến chiều xong việc rồi lại lên núi tiếp.
Từ chân núi đến đỉnh núi là chúng ta phải trèo hì hục mất cả ngày, nhưng chân ông bước nhanh như chạy thoăn thoắt như thỏ mà không bám vào đâu cả, thoáng một cái ông đã đến đỉnh núi rồi. Chắc là kiếp trước ông có tu tiên, được quả du hành tiên này nên kiếp này thật lạ lùng là lên đỉnh núi mà ở một mình yên tĩnh và đi nhanh như chạy.
4. Không hành tiên: kiên cố bền chí hoạt động, tập thể dục có phương pháp, những động tác có bài bản. Tập như thế không ngừng, như đây đã nói hai chữ kiên cố, thì mới hy vọng thành công, chứ không phải là dễ được. Khi phương pháp tập khiến cho cơ thể nhẹ mạnh này được thành tựu, vị tiên này đi được ở trong hư không, đi như thoảng qua gió mà mình không hay.
5.Thiên hành tiên: kiên cố luyện nước bọt không dừng nghỉ. Nước bọt rất bổ và chuyên dùng luyện. Khi nhuận đức này thành tựu thì vị này gọi là Thiên hành tiên.
6. Thông hành tiên: kiên cố hấp thụ tinh hoa không dừng nghỉ. Buổi sáng, trưa, chiều, tiên hướng về mặt trời nhìn đăm đăm vào mặt trời để thâu cái tinh khí của mặt trời. Khi luyện thành tựu thì vị này gọi là Thông hành tiên.
7. Đạo hành tiên: kiên cố luyện những loại phép thuật phù chú bay loạn không dừng nghỉ. Khi thuật pháp được thành tựu thì gọi là Đạo hành tiên.
8. Chiếu hành tiên: kiên cố chuyên chú tâm niệm không dừng nghỉ. Các vị này cũng có phép thuật của họ, chuyên một câu nào đó khi thành tựu thì thành Chiếu hành tiên có ánh sáng chiếu quanh tiên.
9.Tinh hành tiên: thủy hỏa giao cấu giao nhau không dừng nghỉ. Khi cảm ứng được thành tựu thì gọi là Tinh hành tiên.
10. Tuyệt hành tiên: kiên cố tập luyện biến hoá không dừng nghỉ. Khi thành công mà đây tiên gọi là giác ngộ thì thành Tuyệt hành tiên.
Như vậy, tiên cũng có từng danh hiệu riêng nhau. Tu tiên nhưng mỗi người tu mỗi cách, ở đây Phật nói cho chúng ta biết là có mười loại tiên.
Mỗi vị tiên, Đức Phật đều nhắc lại hai chữ kiên cố tức phải có công phu tinh tấn không dừng nghỉ. Những việc tu luyện này phải bền tâm lâu dài và mắc công, chứ không qua loa cho xong mà được đâu. Kiên cố và có tâm luyện tập, tiên phải hơn mình vì có tinh thần, sức khoẻ và sống thọ, nhưng cũng không phải là tiên không chết. Hết phước, hết thọ rồi thì tiên cũng đọa, nên Đức Phật cũng khuyên chúng ta không nên nguyện tu theo những hạnh này, vì còn lẩn quẩn trong tam giới.
CÕI TRỜI DỤC GIỚI (còn dục)
A Nan, các người thế gian, không cầu đạo thường trụ, chưa có thể rời bỏ được sự ân ái với vợ mình, nhưng tâm không buông lung trong việc tà dâm, do tâm đứng lặng sinh ra sáng suốt, sau khi mệnh chung ở gần với mặt trời, mặt trăng; một loài như thế, gọi là Tứ Thiên Vương Thiên.
Đối với vợ mình, dâm ái ít ỏi, trong lúc tịnh cư, không được toàn vị, thì sau khi mệnh chung, vượt ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ở trên chóp nhân gian; một loài như thế, gọi là Đao Lợi Thiên.
Gặp cảnh dục tạm theo, bỏ đi không nhớ nghĩ, ở trong nhân gian, động ít, tĩnh nhiểu, thì sau khi mệnh chung, sáng rỡ ở yên trong cõi hư không, ánh sáng mặt trời, mặt trăng không soi đến được; và những người ấy tự mình có ánh sáng; một loài như thế, gọi là Tu Diệm Ma Thiên.
Lúc nào cũng tĩnh, nhưng khi có cảm xúc đến bên mình, chưa chống đối được, thì sau khi mệnh chung, lên trên chỗ tinh vi, không tiếp với những cảnh nhân thiên cõi dưới, cho đến gặp hoại kiếp, tam tai cũng không đến nơi; một loài như thế, gọi là Đâu Suất Đà Thiên.
Chính mình không có tâm dâm dục, chỉ đáp ứng với người khác mà làm, trong lúc phô bày, vô vị như ăn sáp, thì sau khi mệnh chung, vượt lên sinh vào cảnh biến hóa; một loài như thế, gọi là Lạc Biến Hóa Thiên.
Không có tâm thế gian, chỉ đồng với thế gian mà làm việc ngũ dục; trong lúc làm việc ấy, rõ ràng là siêu thoát, thì sau khi mệnh chung, vượt trên tất cả những cảnh biến hóa và không biến hóa; một loài như thế, gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên.
A Nan, sáu cõi trời như thế, hình thức tuy khỏi động, nhưng tâm tính còn dính dấp; từ các cõi ấy trở xuống, gọi là Dục Giới [2].
Dục giới là những vị này chưa rời bỏ được ân ái, dục nhiễm. Họ tu thập thiện, thiền định, bố thí nhưng vẫn còn dục nhiễm. Tùy theo lòng dục giảm nhẹ đến đâu thì ở trên cõi trời cao đến nấy. Các vị trời dục giới thân hình tuy không động nhưng tâm còn dấu vết.
Từ cõi trời dục giới thứ sáu trở xuống là từ cõi Tha hoá tự tại thiên trở xuống vẫn còn bị tam tai tức cõi dục giới còn tam tai. Tam tai: có lửa (vì có dục nên còn lửa), gió (thổi tan xác đi), bão lụt (nước nhận chìm).
Cõi dục giới thứ sáu là cõi trời Tha hoá tự tại thiên: chỉ đồng thế gian mà làm việc ngũ dục. Như chúng ta không thiết ăn nhưng đến bữa cơm vẫn vào ngồi ăn mà không có cảm giác gì. Tuy là đáp ứng vợ chồng nhưng dục cảm vô vị tức tâm vị trời này không thiết tha nữa, nên siêu thoát.
Từ trạng thái chán dục này mới bước lên cõi trời sắc giới là không còn dục nữa.
Đức Phật khi sắp thành Phật rồi mà ngài ở cõi trời Dục giới là một cõi rất thấp trong các cõi trời. Voi trắng sáu ngà từ cung trời Đâu Suất thiên (cõi thứ tư của dục giới) giáng trần. Thật ra đây là Đức Phật hiện thân ở cõi trời Đâu Suất chứ không phải bị nghiệp lực và đọa ở cảnh ấy. Vì nguyện lực, bồ tát mới hiện thân ở cõi ấy. Tương lai Đức Phật Di Lặc cũng từ Đâu Suất xuống ta bà.
Các đức Phật vì nguyện lực giáng sanh xuống trần, khi tái sanh đều giáng sanh vào dòng thắng lưu có phước đức tức là dòng thù thắng, tức là cõi trời hoặc ngài sanh vào dòng quý phái Thích Ca vua chúa sát-đế-lợi là giới quan quyền thượng lưu trong xã hội, còn nghèo hèn tầm thường gọi là hạ lưu.
Tu nhân gì để về cõi Đâu suất? Phải có thiền định, phải có thập thiện, tâm dục nhẹ.
Đâu Suất nội viện khác với Đâu suất là thế nào?
Đối với những tầng trời sắc và vô sắc, những cõi trên, thì Đâu Suất hãy còn nặng nghiệp lắm.
Nội viện Đâu suất là những vị có duyên với Đức Phật Di Lặc. Viện là chỗ an trú viện của Đức Phật Di Lặc. Người nào có duyên, có nguyện chịu sự giáo hoá của Đức Phật Di Lặc thì chọn cõi Đâu suất nguyện về vì có Đức Phật Di Lặc giảng pháp. Đức Phật Thích Ca cũng ở đấy để giảng pháp. Giảng Thắng Pháp tập yếu luận cho mẫu hậu Ma-ya trong bảy ngày.
CÕI TRỜI SẮC GIỚI (ly dục)
A Nan, tất cả những người tu tâm trong thế gian, không nhờ Thiền na, thì không có trí tuệ.
Người nào giữ được cái thân không làm việc dâm dục, trong lúc đi, lúc ngồi, đều không nghĩ nhớ, lòng ái nhiễm không sinh, không còn ở trong Dục Giới, thì bản thân liền được làm phạm lữ; một loài như thế, gọi là Phạm Chúng Thiên.
Tập quán ngũ dục đã trừ rồi, tâm ly dục hiện ra, vui vẻ thuận theo các luật nghi, thì người đó liền có thể thực hành những phạm đức; một loài như thế gọi là Phạm Phụ Thiên.
Thân tâm hoàn toàn thanh tịnh, uy nghi không thiếu, cấm giới trong sạch, lại có thêm trí sáng, thì người đó liền được thống lĩnh phạm chúng, làm Đại Phạm Vương; một loài như thế gọi là Đại Phạm Vương.
A Nan, ba loài tốt đó, tất cả khổ não không bức bách được; tuy không phải chân chính tu phép Tam ma đề của đạo Phật, nhưng trong tâm thanh tịnh, những lầm lạc của Dục Giới không lay động được, nên gọi là Sơ Thiền.
A Nan, thứ nữa, các hàng Phạm Thiên khi thống lĩnh phạm chúng, lại tu tập phạm hạnh được viên mãn, làm cho tâm đứng lặng không lay động, và do sự đứng lặng ấy, sinh ra sáng suốt; một loài như thế gọi là Thiểu Quang Thiên.
Hào quang sáng suốt thêm nhiều, chói sáng không cùng, ánh vào thập phương thế giới đều thành trong sáng như ngọc lưu ly; một loài như thế, gọi là Vô Lượng Quang Thiên.
Nắm giữ hào quang viên mãn, tạo thành giáo thể, phát ra sự giáo hóa thanh tịnh, ứng dụng không cùng; một loài như thế, gọi là Quang Âm Thiên.
A Nan, ba loài tốt ấy, tất cả lo buồn không bức bách được; tuy không phải chân chính tu hành phép Tam ma đề của đạo Phật, nhưng trong tâm thanh tịnh, những lầm lạc thô động đã dẹp xuống, nên gọi là Nhị thiền.
A Nan, những loài trời như thế, khi dùng hào quang viên mãn làm việc giáo hóa, do sự giáo hóa càng rõ lẽ nhiệm mầu, phát ra hạnh tinh tiến, thông với cái vui yên lặng; một loài như thế gọi là Thiểu Tịnh Thiên.
Cảnh thanh tịnh hiện tiền, dẫn phát không có bờ bến, thân tâm được khinh an, thành cái vui yên lặng; một loài như thế gọi là Vô Lượng Tịnh Thiên.
Thế giới và thân tâm, tất cả hoàn toàn thanh tịnh, đức thanh tịnh được thành tựu, cảnh giới thù thắng hiện tiền, dồn về vui yên lặng; một loài như thế gọi là Biến Tịnh Thiên.
A Nan, ba loài tốt đó, đầy đủ công hạnh đại tùy thuận, thân tâm yên lặng, được cái vui vô lượng; tuy không phải chân chính được phép Tam ma đề của đạo Phật, nhưng trong tâm yên ổn, hoan hỷ được đầy đủ, nên gọi là Tam Thiền.
A Nan, lại nữa, những loài trời đó, thân tâm không bị bức bách, nguyên nhân của khổ đã hết, lại xét cái vui không phải thường trụ, lâu rồi cũng phải tiêu tan, nên cả hai tâm khổ và vui, đồng thời đều phóng xả; những tướng thô nặng đã diệt, thì phúc thanh tịnh sinh ra; một loài như thế, gọi là Phúc Sinh Thiên.
Tâm phóng xả được viên mãn, sự nhận hiểu cao xa càng thanh tịnh; trong cái phúc không gì trở ngại đó, được sự tùy thuận nhiệm mầu cùng tột vị lai; một loài như vậy, gọi là Phúc Ái Thiên.
A Nan, từ cõi trời đó, có hai đường trẽ : Nếu dùng cái tâm sáng suốt thanh tịnh vô lượng trước kia, mà tu chứng an trụ nơi phúc đức viên mãn sáng suốt, thì một loài như thế, gọi là Quảng Quả Thiên.
Nếu nơi cái tâm trước kia nhàm chán cả cái khổ và cái vui, lại nghiền ngẫm cái tâm phóng xả, tiếp tục không ngừng, đi đến cùng tột sự phóng xả, thân tâm đều diệt hết, ý nghĩ bặt mất, trải qua năm trăm kiếp, người ấy đã lấy cái sinh diệt làm nhân, thì không thế phát minh tính không sinh diệt, nên nửa kiếp đầu thì diệt, nửa kiếp sau lại sinh; một loài như thế gọi là Vô Tưởng Thiên.
A Nan, bốn loài tướng tốt ấy, tất cả những cảnh khổ, vui trong thế gian không lay động được; tuy không phải là chỗ bất động chân thật của đạo vô vi; song, nơi cái tâm hữu sở đắc, công dụng đã thuần thục, nên gọi là Tứ Thiền.
A Nan, trong đó, lại có năm bậc Bất Hoàn Thiên, các vị này đã diệt hết tập khí chín phẩm tư hoặc trong cõi dưới rồi, khổ, vui không còn, bên dưới không có chỗ ở, nên an lập chỗ ở nơi chúng đồng phận của tâm phóng xả.
A Nan, khổ, vui cả hai đều diệt, không còn tâm niệm ưa ghét; một loài như thế, gọi là Vô Phiền Thiên.
Tự tại phóng xả, không còn năng xả, sở xả; một loài như thế, gọi là Vô Nhiệt Thiên.
Khéo thấy thế giới mười phương thảy đều đứng lặng, không còn tất cả những cấu nhiễm trầm trọng của trần cảnh; một loài như thế, gọi là Thiện Kiến Thiên.
Tri kiến thanh tịnh hiện tiền, sử dụng được không ngăn ngại; một loài như thế, gọi là Thiện Hiện Thiên.
Quán sát rốt ráo các cực vi, cùng tột tính của sắc pháp, vào tính không bờ bến; một loài như thế, gọi là Sắc Cứu Kính Thiên.
A Nan, những bậc Bất Hoàn Thiên đó, chỉ riêng bốn vị Thiên Vương Tứ Thiền được có kính nghe, nhưng không thể thấy biết; cũng như hiện nay, có các thánh đạo trường nơi rừng sâu đồng rộng thế gian, đều là những nơi trụ trì của các vị A La Hán, nhưng những người thô thiển thế gian không thể thấy được.
A Nan, mười tám loài trời đó, tâm thường ở trong định, không dính dáng với trần cảnh, song chưa hết cái lụy của hình hài; từ đó trở về, gọi là Sắc Giới[3] .
Chúng ta có thể hiểu các cõi trời sắc giới như sau:
• Sơ thiền: Phạm chúng thiên, Phạm Phụ Thiên. Đại Phạm Thiên.
• Nhị thiền: Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang thiên, Quang Âm Thiên.
• Tam thiền: Thiểu Tịnh thiên, Vô Lượng Tịnh thiên, Biến Tịnh thiên.
• Tứ thiền: Phước Sanh Thiên, Phước Ái thiên, Quảng Quả thiên và Vô Tưởng thiên.
• Ngũ Tịnh Cư Thiên: Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt thiên, Thiện Kiến thiên, Thiện Hiện thiên, Sắc Cứu Cánh thiên.
Cõi sơ thiền tuy không phải chánh định, nhưng không có nhiễm, không có những lỗi lầm như của dục giới nên thoát được các khổ não. Các vị này đã thoát những dục tâm, ngũ dục (sắc thanh hương vị xúc) tuy nhiên họ vẫn còn cái lụy hình hài, nên gọi cõi sắc.
Như vậy, vừa lên đến sơ thiền là bắt đầu hết lòng dục.
Lên nhị thiền thì thoát ly được các ưu thụ, trong tâm thanh tịnh. Tất cả tuy không tu chánh định nhưng đã uốn dẹp được các thô lậu tức lầm lạc thô thiển.
Rồi lên đến cõi tam thiền thì rời bỏ được cái hỷ thọ ở nhị thiền, được cái vui khinh an vô lượng, nên thân tâm cho đến cảnh giới thảy đều thanh tịnh. Trong Phật giáo hay ví vui như vui ở cõi tam thiền.
Cõi tứ thiền đã thoát ly được các cảnh khổ, vui thế gian, nên tuy không phải là chánh định, nhưng trong tâm đã có chỗ sở đắc, công phu cũng đã bắt đầu thuần thục và phước báo cũng cao.
Các vị này tham, sân, si không hiện lên được, nếu loại bỏ được thì chứng A-la-hán, có định lực hàng phục được, nhưng còn ở trong đường luân hồi vì vẫn còn trụ pháp, trụ sắc thân.
CÕI TRỜI VÔ SẮC GIỚI (ly sắc thân)
Lại nữa, A Nan, từ chỗ cao nhất của Sắc giới, lại có hai đường trẽ. Nếu nơi tâm phóng xả, phát minh được trí tuệ, trí tuệ sáng suốt viên thông, thì ra khỏi cõi trần, thành vị A La Hán, vào Bồ Tát thừa; một loài như thế, gọi là Hồi Tâm Đại A La Hán.
Nếu nơi tâm phóng xả, khi thành tựu được sự phóng xả rồi, lại cảm thấy cái thân làm ngăn ngại và tiêu cái ngăn ngại ấy vào hư không, thì một loài như thế gọi là Không xứ.
Các chất ngại đã tiêu trừ rồi, nhưng không diệt được cái vô ngại, trong đó chỉ còn thức A lại da và còn nguyên vẹn phần nửa vi tế của thức Mạt na; một loài như thế, gọi là Thức xứ.
Sắc và không đã hiết, cái tâm biết là hết ấy cũng diệt trừ, mười phương vẳng lặng, không còn gì nữa; một loài như thế, gọi là Vô sở hữu xứ.
Thức tính vốn không lay động, lại dùng cái diệt mà diệt đến cùng; trong chỗ không thể hết, phát minh nhận cho là hết, nên hình như còn, mà không phải còn, hình như hết, mà không phải hết; một loài như thế, gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Bọn này xét cùng cái không, nhưng không tột lý không; nếu từ thánh đạo cõi trời Bất Hoàn mà xét cùng, thì một loài như thế, gọi là Bất Hồi Tâm Độn A La Hán. Nếu từ cõi trời Vô Tưởng và ngoại đạo mà xét cùng cái không, không biết trở về, mê lầm không nghe chính pháp, thì sẽ vào trong luân hồi.
A Nan, trên các cõi trời đó, mỗi mỗi đều là những phàm phu hưởng sự báo đáp của nghiệp quả và khi sự báo đáp ấy hết rồi, thì trở vào trong luân hồi. Thiên vương các cõi kia, thường là Bồ Tát, dùng Tam ma đề mà lần lượt tiến lên, hồi hướng về đường tu hành đạo Phật.
A Nan, những cõi trời Tứ Không đó, thân tâm diệt hết, định tính hiện tiền, không có sắc pháp của nghiệp quả; từ đó đến cuối cùng, gọi là Vô Sắc Giới.
Bọn đó, đều do không rõ Diệu giác minh tâm, chứa nhóm cái vọng, mà giả dối phát sinh ra ba cõi, giả dối theo bảy loài trong đó, mà chìm đắm và cá thể thụ sinh cũng theo từng loài[4] .
Các vị này chẳng những thọ mà đến tưởng cũng không, nhưng còn ở trong hành ấm. Coi như lạc ở Vô sắc rồi thì không còn trần tướng, hôn trầm, ngũ trược, căn cảnh đối nhau.
Dục giới: còn dục và còn sắc,
Sắc giới: hết dục nhưng còn sắc,
Vô sắc giới: không dục và không sắc và những cõi này xa xôi lắm, không biết gì. Ở trong định lực thấy không, thấy huyễn, nhưng không nắm được lý không để nhận được tánh chân không, thành ra trụ vào cái không không đó, khi hết định lực thì đọa xuống nên vẫn còn luân hồi.
Các vị này vẫn còn thức mạt na vi tế và chưa biết rõ đường đi tam-ma-đề. Các ngài ở cõi vô sắc giới xả được phần thô mà chưa xả được phần vi tế vì không biết làm sao mà xả. Còn thân là còn chướng ngại, các ngài không còn thân nữa nhưng còn vô ngại, còn trụ định là ta. Bởi vì thức a-lại-da tuy nó vô ngại nhưng nó vẫn còn chấp trì. Nên các vị này vẫn còn thức thực và tư thực trong bốn thực (như đã nói ở phần tam tiệm thứ), vẫn còn thức chấp duy trì mạng vị.
CÕI A-TU-LA
Lại nữa, A Nan, trong ba cõi trời ấy, còn có bốn giống A tu la.
Nếu từ loài quỷ, do sức bảo hộ chính pháp, được thần thông vào hư không, thì giống A tu la này, từ trứng sinh ra, thuộc về loài quỷ.
Nếu từ cõi trời, đức kém phải sa đọa, chỗ ở gần với mặt trời, mặt trăng, thì giống A tu la đó, từ thai sinh ra, thuộc về loài người.
Có chúa A tu la, nắm giữ thế giới, sức mạnh đến chỗ không phải sợ ai, có thể tranh quyền với Phạm Vương, Đế Thích và Tứ Thiên Vương; giống A tu la này, nhân biến hóa mà có, thuộc về loài trời.
A Nan, riêng có một số A tu la thấp kém, sinh ra trong lòng biển lớn, lặn trong thủy huyệt, ban ngày đi chơi trên hư không, tối về ngủ dưới nước; giống A tu la này, nhân thấp khí sinh ra, thuộc về loài súc sinh.
A-tu-la là loài quỷ thần hay còn gọi là phi thiên (không phải các vị trời như vừa nêu trên). Tuy a-tu-la có thần thông biến hoá, nhưng còn nhiều lòng sân hận, tranh đấu hơn thua sát phạt nên không được lên cõi trời.
Có bốn loại a-tu-la:
1. A-tu-la trời (do hoá sanh),
2. A-tu-la người (do thai sanh),
3. A-tu-la quỷ (do noãn sanh),
4. A-tu-la bàng sanh (do thấp sanh).
Trong vòng luân hồi, Đức Phật minh họa hình ảnh a-tu-la là tay cầm cung tên, đao gươm và đánh chém tranh hơn tranh thua sát phạt với nhau. [5]
Đây là những cõi tu nhân riêng biệt mà gặt quả hư vọng nên còn luân hồi.
1 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 700-705.
2 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 706-7.
3 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 708-13.
4 Sống Chết Bình An (từ cuốn Tạng Thư Sống Chết – The Book of Dealth, Sogyal Ripoche soạn, do ni sư Trí Hải dịch), Tỳ-kheo-ni Diệu Khiết trích đoạn, 1997, tr. 44-7.
5 Vòng Luân Hồi, TN Giới Hương, tr. 33-4.
Chương XV
KẾT KHUYẾN
Phần Khai thị chỗ hư vọng của bảy loài để khuyến khích tu hành chánh pháp, Đức Phật dạy rằng xét rõ bảy loài (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người và thần tiên, trời và a-tu-la) như thế, đều là những tướng hữu vi tối tăm, giả dối tưởng tượng thụ sinh, giả dối tưởng tượng theo nghiệp; đối với tâm tính Diệu viên minh, bản lai không năng tác, sở tác, thì đều như hoa đốm giữa hư không, vốn không dính dáng; chỉ một cái hư vọng, chứ không có cỗi gốc manh mối gì.
Khai Thị về Nghiệp Nhân
A Nan, những chúng sinh đó, không nhận được tâm tính bản lai, chịu cái luân hồi như thế trong vô lượng kiếp, mà không chứng được chân tính thanh tịnh, đó đều do chúng thuận theo những sát, đạo, dâm, hoặc ngược lại ba cái đó, thì lại sinh ra không sát, không đạo, không dâm; có, thì gọi là loài quỷ, không, thì gọi là loài trời; có và không thay nhau, phát khởi ra tính luân hồi.
Chỉ Rõ Sự Tu Hành Chân Chánh
Nếu khéo tu tập phát huy phép Tam ma đề, thì trong bản tính thường diệu, thường tịch, cả hai cái có, cái không đều không và cái không có, không không cũng diệt, còn không có gì là bất sát, bất đạo, bất dâm, làm sao lại còn thuận theo được những việc sát, đạo, dâm.
Tổng Kết về Quả Báo Đồng Phận
A Nan, không đoạn được ba nghiệp, thì mỗi mỗi chúng sinh đều có phần riêng, nhân những cái riêng ấy, mà quả báo đồng phận chung của các cái riêng, không phải là không chỗ nhất định; đó là do vọng kiến của tự mình phát sinh ra; hư vọng phát sinh vốn không có nhân, không thể tìm xét nguồn gốc được.
Khuyên Đoạn Trừ
Thầy khuyên người tu hành, muốn được đạo Bồ đề, cốt yếu phải trừ Tam hoặc; tam hoặc không hết, thì dầu được thần thông, cũng đều là những công dụng hữu vi của thế gian; tập khí mê lầm đã không diệt, thì lạc vào đường ma; tuy muốn trừ cái vọng, nhưng lại càng thêm giả dối; Như Lai bảo là rất đáng thương xót. Như thế, đều do vọng kiến tự mình tạo ra, không phải là lỗi của tính Bồ đề.
Nói như thế ấy, tức là lời nói chân chính; nếu nói khác thế, tức là lời nói của Ma Vương[1] .
Phần khai thị nghiệp nhân, Đức Phật nói có sát, đạo, dâm, vọng hay không sát, đạo, dâm, vọng, có và không thay nhau, phát khởi ra tánh luân hồi. Đó là ý nghĩa luân hồi trong lăng kính Lăng Nghiêm. Sát, đạo, dâm, vọng là phận trong, là ác và không sát, đạo, dâm, vọng là phận ngoài, là thiện, đều là tánh luân hồi.
Vì sao gọi là luân hồi?
Vì nhận giặc làm con, nên khi tôn giả A-nan gặp 32 hảo tướng của Đức Phật Thích Ca, chuyển về xuất gia, luân chuyển hai cuộc đời là từ một chàng thái tử vinh hoa phú quý thành một sa môn khất thực không nhà.
Gặp nàng Ma-đăng-già xinh đẹp là chuyển sắp phạm giới thể. Tâm bị chuyển biến tức mất cái tịch thường, mất cái bất động của căn bản bồ đề, thức tinh nguyên minh.
Mình nhận cái biến hoá làm mình: tôi khát ngưỡng Đức Phật, tôi rúng động bởi sắc nước hương trời của nàng Ma-đăng-già, thành mình bị biến hoá, mới có chuyện luân chuyển. Vì thấy thiện là hay, là không sát, đạo, dâm, vọng, là gặp 32 hảo tướng thành ra mình vẫn bám lấy nó, nên chuyển. Nay biết ngay cả thiện cũng do chuyển, thì đừng chuyển, nghĩa là gặp thiện thì cứ làm, nhưng mà biết theo duyên, theo duyên mà làm, nếu không đủ duyên thì thôi không sao, thì chúng ta sẽ được tự tại không bị chuyển. Ngay duyên thiện cũng cũng không chuyển huống là duyên ác.
Chợt gặp duyên thiện thì tâm thiện khởi lên.
Chợt gặp duyên ác thì tâm ác khởi lên.
Cho nên chuyển động tâm mình.
Mình phải sáng suốt làm chủ.
An định tinh thần.
Nếu không an định, mình chuyển theo thiện, mình lộ vẻ mừng rỡ thì phải đề phòng, chốc nữa gặp duyên khác, tâm lại chuyển động theo đó khóc cười. Vì nó luôn chạy theo, nên nếu gặp ác nó lại chuyển theo ác, đề phòng những chuyển động của các loại tâm này.
Lúc duyên thiện, tuy mình biết là thiện, mình theo mình làm thiện, nhưng mà làm chủ sáng suốt chứ không để những chuyển biến nó làm chủ thì Phật sự thành ma sự, cho nên dù gặp những thắng thiện mà không đủ duyên thực hiện cũng không tiếc, không trách cứ.
Những thắng thiện là gì?
Ngay cả mình ngồi thiền buông những sắc, âm thanh, động loạn diệt hết, kiến văn giác tri, không sát, đạo, dâm, vọng chỉ giữ một u nhàn thì cũng là pháp trần phân biệt ảnh sự.
Bỏ trần sáng thì gặp tối (đối với mắt),
Bỏ trần động thì gặp tĩnh (đối với tai),
Bỏ thông thì gặp tĩnh (đối với mũi),
Bỏ vị thì gặp nhạt (đối với nếm),
Bỏ xúc thì gặp không xúc chạm (đối với thân),
Bỏ sanh thì gặp diệt (đối với ý).
Như vậy bỏ sáu mặt của động, đạt được sáu mặt tĩnh thì vẫn là pháp trần phân biệt ảnh sự vi tế thì dù đạt Tứ Thiền (sắc giới) và Tứ Không (vô sắc giới) thì cũng vẫn chưa hết chủng tử đọa lạc, thì cũng vẫn chưa hết lầm chấp vọng tưởng vi tế (nắm giữ u nhàn) tức vẫn tưởng đến các tướng hư vọng của tiền trần và vẫn bị luân chuyển.
Cho nên những thắng thiện này mình không tiếc, bởi vì nó biến hoá, đừng nhắm mắt theo sự biến hoá của nó, chợt nó thiện, chợt nó ác, mình phải sáng suốt làm chủ. Nếu mình còn tiếc cái thiện, cái định của các cảnh giới thiền gọi là thù thắng tốt đẹp của cõi trời hay thiện của người thì mình còn lên xuống, vì mình còn nắm lấy nó, sống với nó.
Sống ở trong vô thường còn lấy cái biến hoá, nhận làm tâm tánh của mình, nhận làm thân thể của mình tức đã sống với biến hoá vô thường thì làm sao bình an, yên ổn nên sanh diệt nối tiếp.
Trước giờ mình sống với cái dụng sai, bây giờ nhận lấy cái thể và đứng vững với cái thật thể của tâm mình.
Hễ thanh tịnh thì làm thánh. Hễ nhiễm ô thì làm phàm.
Nhờ các bậc thánh giảng dạy khiến cho mình biết ngửa lên mong cầu những cái cao thượng, tốt đẹp về tinh thần gọi là có lý tưởng. Phần này gọi là ngoại phận bởi vì đây là nhờ Phật, Bồ tát, thánh hiền giảng dạy mình mới biết mà mong cầu mà khát ngưỡng, cho nên đây là phần tưởng tức là ngoại phận.
Phần tình là mừng, giận, thương, lo, buồn, tủi đó là chuyện của chúng ta, gọi là nội phận.
Nặng về phần tình thì đi xuống khốn khổ.
Nhẹ về tình tức nghiêng về phần tưởng thì đi lên, làm thánh, giải thoát, sung sướng.
Thế cho nên nội phận là phần tình và ngoại phận là phần tưởng, vì có tình tưởng xen lộn nên mới có bảy thú (trời, a-tu-la, thần tiên, người, địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh). Nhẹ thì lên trời, nặng thì xuống địa ngục nên có bảy thú lên xuống khổ, vui, cũng là do một tâm mình mà ra cả.
Thế nào là nhân quả cõi trời? tâm tu thập thiện, thiền định là nhân, kết quả có thân ông trời ở cõi trời. Bản gốc là nhân, mạt là quả. Nhân tức là bản gốc là tâm địa tu thập thiện, thiền định, nên kết quả hiện lên hình tướng là ông trời và cảnh giới cõi trời, đó là chữ mạt. Cả nhân địa tu thập thiện và quả tâm địa là Như lai tạng. Ông trời, cảnh trời cũng là từ Như lai tạng biến ra, cho nên cả gốc lẫn ngọn cũng đều là Như lai tạng diệu chân như tánh, rốt ráo từ đầu đến đuôi đều là Như lai tạng diệu chân như tánh biến ra. Vì tất cả nhân quả, bản mạt, cứu cánh rốt ráo đều là thật tướng. Đây là ý nghĩa của thập như thị trong kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh.
Cõi trời là cõi toàn gây mê, toàn những cái vui, cho nên con mắt, cái tai, lỗ mũi, cái miệng, cái thân và cái ý suốt ngày bị mê muội. Đã mê muội thì đi về ngu si. Cho nên ngu si là gốc khổ, do vậy Đức Phật khuyên đệ tử của ngài không cầu sanh về cõi trời.
Vì để chỉ thật tướng ấy, nên Đức Phật nói kinh Thủ Lăng Nghiêm. Nhân quả ở cõi trời cho đến nhân quả ở địa ngục cũng đều do tâm thức hiện ra mà thôi, cho nên nói tất cả vạn pháp đều do tâm thức cả.
Vì tất cả nhân quả, bản mạt, cứu cánh rốt ráo đều là thật tướng, nên nói tất cả vạn pháp đều do tâm thức cả. Kinh Hoa nghiêm cũng chủ trương vạn pháp duy tâm. Bây giờ chúng ta thấy ra: mình, người, sơn hà, đại địa, ngọn cỏ, sợi dây, thắt nút... chung quy chỉ có một tâm tánh mình biến ra thôi. Tâm tánh mình ở khắp pháp giới chứ không phải thu lu ở trong cái thân đất, nước, gió, lửa nhỏ bé này.
Do chúng ta theo nội phận tức yêu ghét của mình là tình trong thân này. Sở dĩ gọi nội phận là tình vì chúng ta nhận nó là mình, mình là nó, còn tâm thanh tịnh chơn tâm thì bây giờ chúng ta còn học tập, để trở về cho nên gọi là ngoại phận, ước mong tưởng cho nên gọi phận ngoại, bên ngoài.
Theo ngoại phận, lý tưởng để khát ngưỡng tốt đẹp thì đi lên. Còn theo vọng tình cứ yêu ghét, mừng, giận, thương lo buồn tủi thì đó là đường đi xuống gọi là cảnh khổ.
Tu là quay về tâm mình, buông vọng tình để khát ngưỡng lý tưởng.
Cho đến gió cũng do tâm động mà cảm thành.
Cho đến đất cũng do si ám mà thấy thành chướng ngại.
Cho đến nước cũng do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ nó chảy lên. Nước ái dục nặng nề.
Tham ái, ngã ái, ngã chấp, ngã kiến đều là gốc đọa lạc, chỉ là tâm chúng ta chứ không chi khác.
Trong thì mừng giận thương lo, ngoài thì những cảnh sáu trần mình đang sống đây cũng là tâm mình; rồi đến đất, nước, gió, lửa cũng chính là tâm mình, không có gì to hay nhỏ, không có gì ngoài tâm về phương diện trực chỉ của con người. Vọng thân là tâm đã đành mà ngay vọng cảnh cũng từ tâm biến ra, nên chung quy là học tâm.
Cố gắng sống trong chân thật, buông xả tâm mình bình an, an ổn, sẽ được an vui mãi mãi. Nếu sống với vọng thân, vọng tâm thì cứ vật vờ ở trong mê muội, kiếp này sang kiếp khác. Chúng ta từ vô thủy tới giờ nghĩa là con số kiếp, không biết bao nhiêu là cùng mà chúng ta cứ cam phận ở trong mê muội mãi, cho nên Đức Phật nhắc cho chúng ta tỉnh ra. Yêu ghét, mừng, giận, thương, lo, buồn, tủi đều là những chuyện huyễn vọng, đừng khư khư theo nó nữa.
Phải chơn thật nhận ra mới biết kinh Thủ Lăng Nghiêm có chân giá trị, quý hơn những gì có trên thế gian này.
Tùy duyên sống theo mọi người. Cũng tùy duyên sống như mọi người nhưng chính mình phải biết đây là hư vọng.
Làm thế nào để thoát cái luân hồi sanh tử? Xin đừng đâm đầu vào bể sanh tử làm gì nữa.
Mặc ai sống chết trong sanh tử, hãy lo cho mình giải thoát đã, chắc là phải vậy thôi. Chúng ta phải học cho mình biết bơi rồi mới có đủ sức để kéo người khác.
Không bỏ được cái mê, không nhận được chân tâm tức là vẫn sống trong đường mê.
Không bỏ được cái mê tức là vẫn chưa tỉnh được cái chân thật, thì vẫn chưa nhận được cái chân thật.
Thế cho nên, chúng ta phải học đi, học lại hoài, phải cố gắng hấp thụ bộ Thủ Lăng Nghiêm để tìm lối sống thật cho mình.
Sống với chân thật thì sẽ được an vui vĩnh viễn mà nếu sống với vọng thân, vọng tâm hư vọng thì cứ vật vờ ở trong mê muội, kiếp này sang kiếp khác. Chúng ta từ vô thủy tới giờ nghĩa là con số kiếp không biết bao nhiêu là cùng mà chúng ta cứ cam phận ở trong mê muội mãi cho nên Đức Phật nhắc nhở để chúng ta tỉnh ra.
Cái động cơ thúc đẩy khiến cho chúng sanh sanh tử tương tục là nghiệp. Nghiệp là hành động được biểu hiện qua thân, miệng và ý thức, trong đó ý thức là then chốt.
Xuất gia học Phật, giữ giới luật là nhân chính để ngăn chặn đường luân hồi, để thúc liễm thân, khẩu, ý thuần tịnh. Thấy sự sát sanh của thế gian, quả báo sự thù hận không có dừng nghỉ, bổn phận của chúng ta là may mắn được học Phật, giữ giới không sát sanh, trộm cắp, nói láo, lại được học kinh sách để biết nghĩa lý, nguyên nhân, đạo đức, tánh phật của mình. Có thân người là có chất liệu giác tỉnh, đời này cố gắng ra khỏi vòng luân hồi này.
Vòng bảy đạo này luôn xoay chuyển, chúng ta vừa mới ở bào thai, giờ đây sáu căn đang tiếp xúc sáu trần, chúng ta phải tập giác tỉnh, học Phật để làm chủ cái tâm, trở về tánh vô lượng thọ, tánh A-di-đà của mình. Dừng vòng luân hồi lại, chính hiện tại chúng ta đang có tập khí về vòng luân hồi, vô minh nó lôi cuốn mà biến ra 12 loài chúng sanh.
Hễ mê là chúng sanh mà giác là Phật. Hễ mê là có vọng kiến, tâm nó cuồng, nó loạn suốt thì gọi là người điên, là chúng sanh, còn không cuồng loạn thì gọi Phật, là bậc giác tỉnh. Hai hạng người khác nhau.
Trong mục hai điều nạn hỏi, Đức Phật đã từ bi hỏi vặn lại để chúng ta phản quang tự kỷ nhìn lại mình:
Ngài đã phát minh đại nghĩa, sao chúng ta còn chẳng chịu quay về?
Chúng ta cũng vừa thoát khỏi các loài này mà được vào bào thai người, bây giờ tạm được thân người. Thân người là cửa ải để ra khỏi những nạn này. Ra khỏi thì thoát mà không thì trở lại vào địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, rồi làm người. Những nghiệp trước và nghiệp sau ràng buộc lẫn nhau.
Bây giờ chúng ta có đủ nhân, đủ duyên được làm thân người có bộ óc, có khả năng giác tỉnh, chứ chó mèo không thể tỉnh được, cho nên hàng ngày trong đời sống của chúng ta, hoặc là tu thiền định nhĩ căn viên thông như đức Quan-thế-âm, hoặc niệm Phật như Bồ tát Đại Thế Chí bồ tát để vượt ra khỏi vòng lẩn quẩn này. May cho chúng ta vừa thoát được những loài này mà giờ vào làm người đây thì phải để ý chỗ này, nhìn xuống tam đồ sâu hun hút để cầu về cực lạc mà giải thoát vĩnh viễn.
Cầu về cõi Phật chẳng những hưởng bình an, yên ổn, để có cơ hội gần các bồ tát, thánh chúng mà giải thoát tiếp. Tỉnh được mà ra khỏi được thì tinh thần đi lên, bảo đảm giải thoát. Còn về cõi nào trong bảy cõi này thì vẫn ở trong đường mê, vẫn trong cái lẩn quẩn đáng sợ đầy nguy hiểm, nên phải một lòng tha thiết cầu thoát ra đám mây mù vô minh, nương ngón tay tam-ma-đề chỉ để thấy vầng trăng sáng trên không.
Đức Phật nhắc để chúng ta tỉnh ngộ, quan trọng là lúc nào cũng quay về mình, sáng suốt mà làm chủ lấy mình. Tam giới và luân hồi trong thất thú chỉ vì một chữ vọng mà ra. Tự tánh bồ đề của chúng ta vốn không có vọng, cũng chẳng có chân.
Bầu trời trong sáng
Không trăng, có trăng
Bóng trăng ảnh hiện
Đâu chẳng là trăng?
Mỏi gối tìm trăng
Ngập nắng hoàng hôn
Không đợi trung thu
Vầng trăng chiếu sáng.
Thư phòng chùa Phước Hậu,
Thích Nữ Giới Hương
1 Vòng Luân Hồi, TN Giới Hương, tr. 33-4.
SÁCH THAM KHẢO
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Minh biên dịch, Nhà Xuất bản Tp HCM, 1999.
- Nghi Thức Tụng Niệm Hàng Ngày, HT Thiện Thanh dịch, Chùa Phật Tổ, CA.
- Sống Chết Bình An (từ cuốn Tạng Thư Sống Chết – The Book of Dealth, Sogyal Ripoche soạn, do Ni Sư Trí Hải dịch), Tỳ-kheo-ni Diệu Khiết trích đoạn, 1997.
- Thích Nữ Giới Hương, Vòng Luân Hồi, Nhà xuất bản Phương Đông, 2008.
Thích Nữ Giới Hương