đậu tương đen hữu cơ

Tham luận - Sách - Tài liệu

14:53 04/02/2012

Phần 18: Những hạt ngọc trí tuệ Phật giáo (Thích Tâm Quang)

(TG&DT) - Tất cả những Giới và luật lệ hạnh kiểm đều căn cứ duy nhất vào nguyên tắc của một nền công lý toàn hảo. Chúng cho thấy sự kính trọng đời sống, nhân quyền, tài sản,... của Phật Giáo với mọi người. Ðó là sự thật thế gian hay quy ước. Nếu Ðức Phật thiết lập Giới linh động và có thể áp dụng theo lời mong ước của đại chúng, thì giới ấy không phù hợp với bản chất của một nền công lý toàn hảo.
V.  TU HÀNH PHẬT GIÁO (Phần cuối)


TẠI SAO HÀNH THIỀN?

          - Bhikkhu Piyananda





Con người không ngưng tìm phương cách gia tăng hạnh phúc, an lạc nội tâm và hòa hợp. Theo công luận, hạnh phúc đạt được do của cải, uy quyền, địa vị xã hội, hay do dùng kem đánh răng, kem thoa mặt, hay lái một loại xe nào đó - ít nhất như cái mà quảng cáo nói. Họ tìm giải pháp cho vấn đề qua gia đình, công việc, bạn hàng, bạn bè vân vân... Họ cố gắng thay đổi những điều kiện bên ngoài về vật chất, xã hội, môi trường chính trị theo cách này hay cách khác, vì họ tin rằng khi thế giới cuối cùng trở nên toàn hảo, họ sẽ hạnh phúc và an lạc. Nhưng họ quên rằng những hoàn cảnh ấy luôn luôn thay đổi, không bao giờ ngưng. Vừa mới hoàn thành được điều mơ ước, thì sự vật lại thay đổi và lời hứa hạnh phúc lại mờ đi như trong suơng mù buổi sáng lúc rạng đông. Ta càng cố gắng bao nhiêu để tiến tới hạnh phúc, thì hạnh phúc lại càng xa lánh như như con bướm đang vỗ cánh bay rất gần mà không sao bắt được. 



Ðuổi bắt mà đa số áp dụng là phương pháp sai lầm để tìm hòa bình và hòa hợp. Họ tìm cầu bên ngoài, ở thế giới bên ngoài thay vì tìm cầu nơi chính mình. Nhiều người khám phá ra suối nguồn thực sự hạnh phúc và những trở ngại: tâm. Và quay sự chú ý về con người vào bên trong, tâm, hành thiền là con đường đó.






Ngày nay, thiền lôi cuốn nhiều người thuộc đủ các tầng lớp xã hội và trong các chủng tộc tôn giáo khác nhau. Tại sao? Vì tâm hành hoạt bất kể người đó thuộc nòi giống hay tôn giáo nào. Nhiệm vụ của thiền là hiểu bản chất của tâm và sử dụng nó hữu hiệu hàng ngày. Tâm là chìa khóa của hạnh phúc, và cũng là chìa khóa của nghèo đói. Ðể hiểu tâm và sử dụng nó hữu hiệu là nhiệm vụ vượt qua chướng ngại về nòi giống, văn hóa và tôn giáo. Ðương nhiên thiền có thể tu tập bởi bất cứ ai bất kể đến nhãn hiệu tôn giáo của người ấy.


Lợi ích của thiền

 




Con người quá bận trong việc tìm kiếm những phương thức để đạt dục lạc trong cuộc tranh đua quyết liệt ngày nay. Thiền có lợi gì? Lợi ích của thiền như sau:

  • Nếu bạn là người bận bịu, thiền giúp bạn quét sạch căng thẳng và tìm thấy thư giãn.


  • Nếu bạn là người lo lắng, thiền giúp bạn bình tĩnh và giúp bạn tìm thấy thanh bình lâu dài hay tạm thời.


  • Nếu bạn là người có quá nhiều vấn đề, thiền giúp bạn có can đảm và sức mạnh để đương đầu và khắc phục các vấn đề ấy.


  • Nếu bạn thiếu tự tin, thiền sẽ giúp bạn lấy lại tự tin mà bạn cần. Lòng tự tin là bí quyết của thành công.


  • Nếu bạn sợ hãi trong tim, thiền có thể giúp bạn hiểu rõ bản chất thực sự của đối tượng làm bạn sợ hãi - rồi bạn có thể khắc phục được sợ hãi trong tâm bạn.


  • Nếu bạn lúc nào cũng bất mãn với mọi thứ - không có thứ gì trên đời này được vừa ý - thiền sẽ cho bạn cơ hội để phát triển và duy trì thỏa mãn nội tâm.


  • Nếu bạn hoài nghi và không lưu tâm đến tôn giáo, thiền sẽ giúp bạn vượt qua tính hoài nghi của bạn và nhìn thấy giá trị thực tiễn trong sự hướng dẫn đạo lý.


  • Nếu bạn thất vọng và thất tình do sự thiếu hiểu biết bản chất về đời sống và thế giới, thiền thực sự hướng dẫn bạn và giúp bạn hiểu điều đã làm xáo trộn bạn bởi những thứ không cần thiết.


  • Nếu bạn là một người giàu có, thiền sẽ giúp bạn nhận thức được bản chất của của cải của bạn và cách sử dụng của cải của bạn cho hạnh phúc của bạn cùng những người khác.


  • Nếu bạn là người nghèo, thiền sẽ giúp bạn đạt sự mãn ý không nuôi dưỡng ganh tị với những người có nhiều hơn bạn.


  • Nếu bạn là người trẻ đứng trước ngã tư của cuộc đời, bạn không biết phải đi ngả nào, thiền sẽ giúp bạn hiểu biết con đường nào phải đi để tiến tới mục tiêu đúng của bạn.


  • Nếu bạn là người già yếu đã chán chường cuộc sống, thiền sẽ mang lại cho bạn sự hiểu biết sâu xa hơn về cuộc đời; sự hiểu biết này sẽ giảm thiểu nỗi đau đớn của cuộc sống và làm tăng sự vui sống.


  • Nếu bạn là người nóng nảy, bạn có thể phát triển sức mạnh để khắc phục nhược điểm nóng giận, hận thù và bất mãn.


  • Nếu bạn ghen ghét, bạn có thể hiểu được cái nguy hiểm của sự ganh ghét của bạn.


  • Nếu bạn là người nô lệ cho năm giác quan, bạn có thể học hỏi cách trở nên chủ tể của những giác quan-tham dục của bạn.


  • Nếu bạn ghiền rượu hay ma túy, bạn có thể nhận thức được cách vượt qua được thói quen nguy hiểm đã làm bạn thành nô lệ.


  • Nếu bạn là người ngu muội, thiền này sẽ cho bạn cơ hội trau dồi kiến thức hữu dụng và lợi ích cho cả bạn lẫn bạn bè và gia đình.


  • Nếu bạn thực sự muốn tu tập thiền định này, cảm xúc của bạn sẽ không bao giờ có cơ hội biến bạn thành người ngốc nghếch nữa.


  • Nếu bạn là người trí, thiền này sẽ mang bạn tới giác ngộ tối thượng. Rồi bạn sẽ nhìn thấy sự vật chúng đúng như thế nào và không phải chúng có vẻ là như thế.


  • Nếu bạn là người tâm tư suy nhược, thiền này sẽ làm tăng sức mạnh cho tâm bạn để phát triển sức mạnh ý chí hầu khắc phục được những nhược điểm của bạn.


Trên đây là một số các lợi ích thực tiễn khi tu tập thiền định. Những lợi ích này không có bán tại bất cứ một tiệm nào hay một siêu thị nào. Tiền bạc không thể mua chúng được. Chúng là của bạn khi bạn tu tập thiền định. Ở lúc ban đầu, loại chú tâm này thực sự là một tâm "lo lắng" đang canh phòng "các tâm vọng tưởng" khác (tất cả trong pham vi tinh thần của mình luôn thay đổi). Bằng cách đó, ta có thể phát triển khả năng nhìn vào tâm và xem nó đi đâu.


Chuẩn Bị Thiền Tập

 




Chọn Ðịa Ðiểm
 

Khi bạn mới bắt đầu tập thiền, điều khuyên bạn là nên có một nơi yên tịnh để bạn có thể tu tập. Cố gắng tìm nơi xa chỗ ồn ào náo nhiệt của một cuộc sống bận rộn. Ðịa điểm có thể là một căn phòng, một mảnh vườn, phòng ngủ - bất cứ chỗ nào bạn có thể tìm thấy. Khi đã tìm được chỗ, gắn bó với nó. Không nên di chuyển chỗ tập thiền.


Khi bạn đã có tiến bộ, bạn có thể tu tập ngay chỗ bạn làm việc hàng ngày. Không cần thiết phải vào nơi ẩn dật. Nhớ rằng khi bạn đã phát triển tu tập thiền định, chỗ nào cũng là chỗ bạn có thể thiền được.


Chọn Giờ Giấc
 

Giờ hành thiền là do bạn quyết định. Bất cứ thì giờ nào bạn đã chọn thì thì giờ ấy phải để dành cho thiền. Trong thời gian này bạn phải nhất quyết quên mọi thứ, mọi hoạt động hàng ngày, lo âu và những thứ đại loại như vậy. Nhất quyết không để một việc gì trần tục xen vào việc tu tập của bạn. Cũng nhất định dành thì giờ thường lệ vào việc thực tập hàng ngày. Nhớ rằng khi bạn đã phát triển được hành thiền thì bất cứ lúc nào cũng là lúc bạn hành thiền. Nếu bạn tiến tới giai đoạn ấy, thiền là một phần của cuộc sống hàng ngày.


Thầy Dạy Thiền

 




Có lẽ bạn cảm thấy cần một người nào đó giúp đỡ, hướng dẫn và chỉ dạy bạn. Không mấy dễ dàng tìm được một thiền sư thích hợp và đủ khả năng. Nếu bạn có người bạn nào hành thiền, hãy nói chuyện với họ; họ có thể là thầy dạy của bạn. Nếu bạn gặp cuốn sách nào hay bài báo nào nói về thiền, hãy đọc chúng; chúng có thể là thầy dạy bạn. Nếu bạn có thể tìm đuợc một thiền sư, nhớ rằng vị thiền sư cũng chỉ là người bạn và người hướng dẫn. Thiền sư này không hành thiền cho bạn được. Ông không thể thực hành cho bạn. Nếu bạn biết cách phát triển sự tập trung và chú tâm để được sung mãn, trong sáng và kiên trì, sự tỉnh thức tập trung là vị thầy, vị thầy ở ngay trong phạm vi của bạn.


Cách Ngồi

 




Về cách ngồi thiền, bạn có thể ngồi theo lối bán già hay kiết già. Nếu cách ngồi đó khó khăn, bạn có thể ngồi ngay trên một cái ghế. Ðể chân thõng xuống đất, chân không căng thẳng. Ngồi ngay ngắn lưng thẳng đứng, thân không ngả về phía trước hay ngả về phía sau, bạn có thể bị buồn ngủ. Giữ thân cho cân đối trong vị thế thẳng cho nên bạn có thể ngồi vững vàng không căng hay cứng nhắc. Nếu cổ và xương sống không giữ được thẳng, bản sẽ cảm thấy đau sau một vài phút.


Thiền Là Gì?

 




Thiền đơn giản là tập trung tỉnh thức. Nếu bạn quan tâm đến hành thiền, bạn phải học làm sao phát triển tập trung qua thiền Samatha (trạng thái tâm vắng lặng, an định) và Vipassana (tuệ minh sát ) thiền. Mặt khác sau khi học làm sao phát triển sự tỉnh thức, hay sự chú tâm, bạn có thể thực hành tuệ minh sát thiền hay tuệ giác thiền. Nếu bạn thích sử dụng tâm vắng lặng (samatha) thiền trong cuộc sống hàng ngày, bạn học hỏi cách áp dụng sự tập trung trong cuộc sống hàng ngày. Nếu bạn muốn sử dụng tuệ minh sát thiền, bạn học cách áp dụng tỉnh thức trong cuộc sống hàng ngày. Sống-thiền đơn giản là phát triển và sử dụng tỉnh thức tập trung trong những kinh nghiệm thông thường và biến cố của cuộc sống hàng ngày.


Samatha: An Chỉ Thiền

 




Samatha (Trạng thái tâm vắng lặng) là một phương pháp huấn luyện tâm cho những ai muốn phát triển sự tập trung. Thiền Samatha liên quan với việc gom tâm vào một điểm.


Nhất điểm trụ là trạng thái tập trung mà tất cả những khả năng và sức mạnh tinh thần đều nhắm vào và điều khiển bởi sức mạnh ý chí hướng về một điểm hay một đối tượng. Nhất điểm tâm là một tâm được tập trung và hợp nhất. Nhất điểm tâm là sự đối nghịch của tâm buông lung hay tán loạn. Bình thường trạng thái tinh thần của chúng ta chạy đi mọi hướng nhưng nếu sự tập trung được dồn vào một đối tượng, bạn bắt đầu biết bản chất thực sự của đối tượng ấy. Tiến trình của tập trung lần lần thay đổi trạng thái tinh thần cho đến khi toàn bộ năng lượng tinh thần đồng quy vào một điểm.


Mục đích phát triển nhất của nhất điểm tâm là gì? Nếu bạn huấn luyện tâm theo đường lối ấy, bạn sẽ mang lại bình tĩnh và sự tĩnh lặng cho tâm và bạn sẽ có thể gom sự chú ý vào một điểm cũng như có thể ngưng những vọng tưởng của tâm và những phí phạm năng lượng hữu dụng. Tâm bình tĩnh không phải là mục đích. Sự bình tĩnh của tâm chỉ là cần thiết để phát triển tuệ giác. Nói một cách khác, một tâm bình tĩnh cần thiết nếu bạn muốn có một cái nhìn sâu vào chính bạn và có được sự hiểu biết sâu xa về chính mình và thế giới.


Thiền Samatha huấn luyện tâm với nhiều giai đoạn khác nhau của sự tập trung tinh thần. Ở giai đoạn cao của sự tập trung tinh thần (được biết là jhana - đắc thiền-na), sức mạnh tâm linh được phát triển. Tuy nhiên giai đoạn cao về tập trung không cần thiết hay thực tiễn cho hầu hết mọi người sống trong nhịp độ cuồng nhiệt của đời sống hiện đại.


Với hầu hết mọi người, tâm nhẩy từ quá khứ tới hiện tại, tới vị lai và từ chỗ này đến chỗ khác. Những người như vậy phí phạm một khối lượng năng lực tinh thần to lớn. Nếu bạn có thể huấn luyện tâm bạn duy trì đủ sự tập trung chú ý đến mỗi nhiệm vụ từng chập một thì quá thừa đủ! Khi bạn đọc, tản bộ, nghỉ ngơi, trò chuyện - bất cứ gì bạn làm trong cuộc sống hàng ngày, hãy hoạt động với một tâm bình tĩnh, đó là chú tâm đến mỗi và mọi hành động. Hãy học cách nhắm tâm vào mỗi nhiệm vụ.


Sống Ngay Bây Giờ!

 




Nếu bạn muốn phát triển sự tập trung, nhiệm vụ trước nhất là bạn phải tìm một đối tượng thích hợp mà bạn có thể phát triển tập trung được tâm. Trong thiền Phật Giáo, có 40 đối tượng (không phải là phương cách hay phương pháp) bạn có thể sử dụng để phát triển tập trung. Bạn không cần thiết phải sử dụng cả 40 đối tượng mà chỉ chọn một trong số đó thích hợp với tính khí và tâm tính của bạn. Nếu bạn không có thầy chọn cho bạn đối tượng thích hợp, bạn phải thử nghiệm và tự lựa chọn. Dưới đây là một vài hướng dẫn để tự tìm ra đối tượng thích hợp cho việc tập trung:

  • Ðối tượng phải trung tính; nếu nó gợi lên bất cứ cảm nghĩ mạnh mẽ về tham, sân vân vân.. bạn không thể làm tâm bình tĩnh mà còn bị bồn chồn và khích động.


  • Ðối tượng có thể ở trong hay ở ngoài. Ðối tượng ở trong là bên trong bạn. Thí dụ đối tượng ở trong như hơi thở, lòng từ ái, từ bi vân vân.. Ðối tượng bên ngoài có nghĩa đối tượng ở bên ngoài bạn. Thí dụ đối tượng bên ngoài như: hình Ðức Phật, một đóa hoa, ngọn núi, vòng ánh sáng, một ngọn lửa nến vân vân..


  • Ðối tượng phải vừa ý, tâm có thể chấp nhận được; nếu tâm luôn luôn bác bỏ đối tượng, sự tập trung sẽ bị yếu đi.


  • Nhớ rằng đối tượng có lúc thích hợp với bạn nhưng rất có thể không được tâm chấp nhận vào lúc khác. Thí dụ, sau một cơn thịnh nộ, rất khó khăn cho bạn sử dụng lòng từ ái như một đối tượng để tập trung. Vào những lúc như thế, cảm xúc nóng giận tự nó có thể dùng là một đối tượng tốt để tập trung.

Một khi đã chọn lựa đối tượng, nhiệm vụ của bạn chỉ đơn giản là giữ tâm bạn cột vào đối tượng như bạn cột một con vật vào cọc. Chìa khóa để thực hiện tập trung là giữ tâm vào một đối tượng, không vào đối tượng nào khác. Bằng cách tụ tâm vào đối tượng, tâm dần dần trở nên bình tĩnh và thư dãn.


Ðây một số bài tạo rèn luyện sự tập trung mà bạn có thể phát triển như một loại thiền chính thức hay một phần trong hoạt động hàng ngày của bạn.

  • Tập về sức khỏe: trong khi đi đi lại lại, hãy giữ ba ý tưởng này trong tâm: "sung sướng, mạnh và khỏe". Hãy nhắc đi nhắc lại những lời ấy, tập trung tâm vào những lời ấy cho đến khi cảm thấy những lời ấy thâm nhập vào thân theo qui luật tự nhiên.


  • Tập về suy nghĩ: Trong khi nghĩ về một đề tài, chú tâm vào đề tài ấy. Tụ tâm vào đề tài ấy mà suy xét. Không nuôi dưỡng tư tưởng xa lạ hay không thích hợp nào.


  • Thực tập thông lệ hàng ngày: khi đọc sách, giữ mắt và tâm vào cuốn sách.


  • Khi quét nhà, chú tâm vào việc quét nhà.


  • Khi đọc cho người khác viết một lá thư, chú tâm vào việc đọc chứ không phải người thư ký.


  • Học cách tập trung vào việc bạn làm từng lúc một. Ðó là sống trong hiện tại. Sống ngay bây giờ!

Vipassana: Minh Sát Thiền

 




Tuệ minh sát thiền là sự hiểu thấu bản chất bên trong sự vật; Vipassana là nhìn sự vật chúng đúng la vậy. Con đường dẫn đến hiểu thấu bên trong hay nhận thức là tỉnh thức hay chú tâm. Phương pháp phát triển sự chú tâm căn cứ vào bài giảng nổi tiếng của Ðức Phật. Trong bài thuyết giảng này, Ðức Phật giải thích cách phát triển và trau dồi tâm. Tên của bài thuyết pháp này là Kinh Satipatthana (Niệm Xứ). Trong kinh này, Ðức Phật đưa ra bốn đối tượng thiền để cân nhắc: thân, cảm nghĩ, tư tưởng và trạng thái tâm. Nền tảng của việc tập Minh Sát Thiền là sử dụng bốn đối tượng đó cho việc phát triển sự tập trung, chú tâm, và tuệ giác hay hiểu thấu chính mình và thế giới chung quanh mình. Satipatthana trình bày phương pháp đơn giản, trực tiếp và hữu hiệu cho việc huấn luyện tâm để đáp ứng nhiệm vụ và những vấn đề hàng ngày hầu đạt được mục tiêu tối thượng: giải thoát. Satipatthana an toàn cho tất cả loại tính nết, và là phuơng cách vô hại để huấn luyện tâm. Bạn có thể dùng được phương pháp này bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu, trong phòng sở bận bịu hay trong bầu không khí yên tĩnh của một đêm thanh bình.


Nhiệm vụ phát triển sự tỉnh thức là chú tâm (sati). Tỉnh thức rất đơn giản, rất thông thường, và rất quen thuộc với trạng thái của tâm. Trong giai đoạn sơ khởi, tỉnh thức tức hết sức chú tâm vào một đối tượng. Có nghĩa là bạn chỉ quan sát đối tượng mà không có suy xét hay suy nghĩ về nó. Tỉnh thức đơn giản là quan sát hay đem chú tâm mà không có một phán xét hay suy nghĩ nào.


Thân Là Một Ðối Tượng Của Thiền

 




Mục đích của những bài thiền tập này là để nhận thức bản chất của thân và không luyến chấp vào thân, không bị lôi cuốn hay cự tuyệt bởi tâm. Thường đa số người tự nhận dạng mình bằng thân. Tuy nhiên, ở một giai đoạn thanh tịnh tâm thần và tuệ giác, bạn sẽ không còn chú ý nghĩ mình là một thân, bạn không còn đồng nhất hóa với thân. Bạn sẽ bắt đầu nhìn thân đúng như nó là thế.


Bài Tập 1: Chú Tâm về Hơi Thở (anapanasati)
 

Ðã chọn xong thì giờ và địa điểm, và đã áp dụng tư thế thích hợp nhất, bạn sẵn sàng bắt đầu. Thở lặng lẽ và tự nhiên, trong khi thở hoàn toàn nhận thức hơi thở của bạn. Nhận thức hành động thở không đồng nhất hóa bạn với hơi thở ấy. Thừa nhận tiến trình ấy như sau: "Hít vào" "Thở ra". Nếu nhiều ý tưởng hay vọng tưởng phát sinh và quấy rầy sự tập trung của bạn, bạn có thể đếm hơi thở: Hít vào 1, 2, 3 - "Thở ra 1, 2, 3.." Khi tập trung tăng trưởng, không cần đếm nữa và nhận thức mình đang thở. Cố gắng chú ý đến điểm trên lỗ mũi, chỗ hơi thở chạm với thân.


Hơi thở có thể trở nên sâu hay nông, chậm hay nhanh, theo khuynh hướng tự nhiên. Giữ thân thẳng thắn và bất động trong khi tinh thần tỉnh táo, hãy theo dõi sát và càng giữ bất động càng tốt. Khi bạn thành thạo với bài tập này, thân trở nên thoải mái va hơi thở điều hòa. Bạn sẽ thấy rất an lạc và không bị phiền nhiễu bởi những biến cố trong tâm hay bên ngoài.


Trong khi thực hành bài tập này, bạn nên quên đi công việc đủ loại hàng ngày, và không nên ý thức cả về chính bạn nữa. Chỉ cần nhận biết tiến trình hơi thở, hít vào biết hít vào, thở ra biết thở ra. Sáng sớm là lúc rất tốt cho bài thực tập này.


Bài Tập 2: Chú Tâm Lúc Kinh Hành
 

Thực tập đi kinh hành băt đầu bằng đứng tại chỗ. Tư thế đứng với thân thẳng, gót chân chạm vào nhau. Mắt nhìn thằng phía trước, không nhìn lên và cũng không nhìn xuống.


Giữ tư thế như vậy suốt lúc tập đi kinh hành. Ðừng theo những chuyển động bằng mắt mà bằng sự chú tâm. Trong khi đứng, nhận thức mình đứng, nhận biết bạn đang đứng bằng cách nói trong tâm "Ðang đứng, đang đứng, đang đứng" Bây giờ bắt đầu đi, trước hết chú ý đến gót chân bên chân phải. Nhận biết nhấc chân phải bằng cách nói trong tâm, "nhấc". Bước tới và nhận thức,"bước" . Hạ thấp chân xuống và để trên mặt đất, nhận thức bằng tinh thần. "Ði".


Tập kinh hành gồm có ba giai đoạn: "nhấc", "bước", và "đi". Nhận biết mỗi giai đoạn khi bạn đi chú tâm tập trung vào những động tác của phương pháp đi cho đến khi bạn tiến tới cuối đường.


Bạn ngùng lại, hai châm chụm nhau trong tư thế đứng thẳng, nói trong tâm:: "Ðang đứng, đang đứng, đang đứng". Khi bạn quay lại bằng gót chân, nhận biết mỗi giai đoạn của sự chuyển động quay lại: quay gót của một chân và nhấc chân lên rồi đặt chân xuống đất của chân kia. Nhận biết bằng cách nói "quay". Khi quay xong, nhận biết tư thế đứng:Ðang đứng, đang đứng, đang đứng". Rồi bắt đầu bước tới: "Nhấc, bước, đi". Việc thực tập này phải được làm chậm rãi càng chú tâm càng tốt.


Nếu bất cứ cảm nghĩ, tư tưởng, tiếng động, xáo trộn vân vân phát xuất, bạn phải nhận biết khi chúng đến. Nếu bạn nghe thấy một tiếng động, bạn tự nhủ "Nghe, nghe, nghe" Nếu một vài tư tưởng xâm nhập tâm, nhận biết và nói "suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ" Sau khi nhận biết, quay sự chú ý về thực tập kinh hành.


Bài Tập 3: Chú Tâm Về Thân Trong Ðời Sống Hàng Ngày
 

Một khi bạn đã phát triển sự tập trung tỉnh thức với thân như môt đối tượng của thiền, bạn phải cố gắng hiểu rõ ràng bạn đang làm gì với thân mọi lúc trong ngày làm việc. Trong khi đi bộ, chú ý đến động tác đi bộ, với nhiều chi tiết mà bạn có thể quan sát được. Tự bạn cũng nhận thức khi thân ngồi, đứng, tựa. Quan sát cử động của thân dù trong hành động nhìn vào, hay nhìn chung quanh, dù cúi xuống hay duỗi ra, dù mặc quần áo, rửa, ăn, nhai kẹo cao xu, hay đáp ứng việc đại, tiểu tiện. Mục đích là giữ vững vàng sự chú ý vào mỗi biến chuyển trong khi nó hiện hữu mà không theo những biến chuyển ấy với tưởng tượng là chúng không hiện hữu. Mục đích bị mất nếu thân làm một đàng mà tâm nghĩ một nẻo.


Bất cứ lúc nào bạn có thì giờ rảnh trong ngày, hãy sử dụng thân như một đối tượng của sự tập trung tỉnh thức.


Cảm Nghĩ Như Những Ðối Tượng Của Thiền

 




Nhiệm vụ ở đây là tinh thần phải nhận thức mỗi cảm nhận lúc cảm nhận ấy phát sinh. Bạn có rất nhiều việc phải làm nếu bạn muốn giải quyết với những cảm nghĩ. Bạn phải hiểu thấu những loại cảm nghĩ phải hay không phải chúng đem thích thú, không thích thú hay trung tính. Bạn phải hiểu làm sao chúng trở thành, làm sao chúng phát triển sau khi phát sinh, và làm sao chúng biến đi. Cảm nhận nảy sanh bất cứ lúc nào có sự tiếp xúc giữa những giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân) và những đối tượng bên ngoài. Cảm nhận phải được nhận thức và hiểu rõ đúng chúng như thế nào.


Bài Tập 1: Chú tâm vào những giác quan căn bản
 

Bạn phải tỉnh thức về những cơ quan của giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi và thân) và sự tiếp xúc của chúng với thế giới bên ngoài. Bạn phải tỉnh thức về những cảm nghĩ phát sinh do kết quả của những sự tiếp xúc ấy. Thí dụ: tai tiếp xúc với tiếng động (Như trẻ em la lối và cười) bên ngoài chỗ bạn thiền. Cảm nghĩ không thích thú nảy sanh hay thân tiếp xúc với bề mặt cứng (cái ghế mà bạn ngồi lên). Không thích; không không thích thú. Cảm nhận như ngứa trong mũi; cảm nhận không thích thú; muốn gãi. Nhận biết cảm nhận và bạn giống như người gác cửa luôn luôn phải canh chừng người vào ra. Sử dụng cảm nghĩ như đối tượng để tập trung tỉnh thức. Rồi bạn sẽ hiểu bản chất của cảm nghĩ và bạn có thể thực tập kiểm soát chúng tốt hơn.


Bài Tập 2: Chú tâm về những cảm nghĩ trong đời sống hàng ngày
 

Cố gắng từ từ thiết lập sự kiểm soát về những cảm nghĩ bằng cách điều độ trong ăn uống, bằng cách tránh ngủ nhiều. Cố gắng nhìn thấy những cảm nghĩ khi chúng phát sinh trong tiến trình đời sống hàng ngày. Ðây một vài thí dụ như khi chờ đợi tại trạm xe buýt, quan sát," "sự bất mãn nảy sanh trong tâm". Trong khi vui hưởng thức ăn trong nhà hàng ăn, quan sát "Lưỡi tiếp xúc với những vật ngon. Tham ăn nảy sanh. "Khi bạn gặp người bạn tốt mà đã từ lâu không được gặp, quan sát, " tâm tiếp xúc với đối tượng về tình bạn. cảm nghĩ tốt, sung sướng nảy sanh".


Các Trạng Thái Tinh Thần Như Những Ðối Tượng Của Thiền





Bạn không thể chạy trốn khỏi tâm. Với thiền bạn có thể huấn luyện cho tâm bình tĩnh và thoát khỏi những xáo trộn bên trong hay bên ngoài. Áp dụng tập trung tỉnh thức với những hỗn loạn bên trong và mâu thuẫn tinh thần, quan sát, hay chú tâm đến tất cả những trạng thái thay đổi của tâm. Khi tâm được phát triển đúng cách, nó mang niềm vui và hạnh phúc nhất. Nếu tâm bị sao lãng nó mang lại cho bạn trở ngại và khó khăn không kể siết. Tâm kỷ luật rất mạnh mẽ và hữu hiệu, trong khi tâm do dự thì yếu và không hữu hiệu. Người trí huấn luyện tâm họ như người luyện ngựa huấn luyện ngựa.


Bài Tập 1: Quan Sát Tâm
 

Ngồi một mình và quan sát những trạng thái thay đổi của tâm. Nhiệm vụ chỉ là vấn đề quan sát sự thay đổi các trạng thái. Không tranh đấu với tâm, hay lẩn tránh tâm, hoặc cố gắng kiểm soát nó. Ðơn giản nhìn vào tâm và cố gắng thấy nó như thế nào. Khi tâm ở trong trạng thái tham dục, phải tỉnh thức biết nó tham dục. Quan sát khi tâm ở trong trạng thái sân hận hay khi nó thoát khỏi sân hận. Quan sát tâm tập trung hay tâm mung lung. Quan sát những hoàn cảnh thay đổi này mà không đồng nhất hóa với chúng. Nhiệm vụ là không chú tâm đến thế giới mà nhắm vào chính tâm bạn: Tâm quan sát tâm để khám phá ra bản chất của chính nó. Quả là một nhiệm vụ hoàn toàn không dễ, nhưng có thể làm được.


Bài Tập 2: Quan Sát Tâm trong đời sống hàng ngày
 

Trong tất cả mọi tình trạng, bạn phải quan sát sự hành hoạt của tâm mà không đồng nhất với hay bào chữa cho tư tưởng của bạn, không xây bức màn của thành kiến, không mong chờ tưởng thưởng hay thỏa mãn. Khi bạn đang quan sát, cảm giác ham muốn, sân hận, ganh ghét, và nhiều trạng thái bất thiện khác chắc chắn phát sanh và làm đảo lộn quân bình của tâm. Ðó là lúc bạn phải thiền để kiểm soát những yếu tố có hại ấy. Những thí dụ như: nhận biết, " tâm lo lắng vì tôi lỡ chuyến xe buýt. Sự lo lắng không phải là xe buýt, sự lo lắng là tâm". Nhận biết " Sân hận trong tâm vì tôi không thích đồ ăn này. Sự sân hận không phải trong đồ ăn, đó là trong tâm. Tôi phải cẩn thận quan sát sân hận này trong tâm".


Tư Tưởng Như Những Ðối Tượng Của Thiền

 



Trong Kinh Satipatthana nói đến sự tỉnh thức về con đường giác ngộ do Ðức Phật trình bày. Nơi đây nhiều khía cạnh của Pháp hay Giáo Lý của Ðức Phật - đối tượng tinh thần- được chú tâm thẩm tra và quan sát khi chúng phát sinh trong tâm. Với những người mới bắt đầu hành thiền và không ý thức đến những khía cạnh này của Giáo Lý của Ðức Phật, những đối tượng này có thể là những tư tưởng và quan niệm phát sinh trong tâm.


Nhiệm vụ nơi đây là tỉnh thức về những tư tưởng sinh rồi diệt trong tâm. Bạn sẽ từ từ hiểu bản chất của những tư tưởng . Bạn phải hiểu cách làm sao sử dụng những tư tưởng thiện và tránh cái nguy hiểm của những tư tưởng có hại. Tư tưởng của bạn lúc nào cũng cần được quan sát nên tâm phải được thanh tịnh hóa.


Bài Tập 1: Chú tâm về những tư tưởng
 

Ngồi một mình rồi tập trung tâm vào những tư tưởng. Quan sát những tư tưởng thiện và thấy chúng ảnh hưởng tinh thần bạn ra sao. Quan sát những tư tưởng có hại và thấy chúng xáo trộn tinh thần bạn ra sao. Ðơn giản là quan sát tư tưởng một cách vô tư và tạo cơ hội để vượt qua chúng. Sự chuyển động vượt qua tư tưởng và kiến thức mang an lạc, hòa hợp, và hạnh phúc. Giống như bạn quan sát người ra vào phòng bạn. Bằng cách tỉnh thức về những tư tưởng, bạn từ từ có thể giảm thiểu những tư tưởng: mỗi tư tưởng được giảm thiểu mang thêm an lạc và sức mạnh cho tâm. Nếu bạn chiến đấu với tư tưởng bạn sẽ có một nhiệm vụ rất không thích thú. Ðơn giản hãy quan sát chúng. Từ từ bạn sẽ hiểu được cách kiểm soát những tư tưởng tội lỗi và khuyến khích các tư tưởng thiện.


Bài Tập 2: Chú tâm về đối tượng tinh thần
 

Thường nhật trong ngày làm việc, cố gắng quan sát tiến trình suy nghĩ của bạn. Không đồng nhất hóa với tiến trình ấy, đơn giản quan sát nó. Nhận biết, " Bây giờ sự suy nghĩ của tôi sai, tôi đang toan đánh lừa người này". Nhận biết, tâm suy nghĩ rất tiêu cực bây giờ. Bất cứ gì tôi suy nghĩ, tôi đều suy nghĩ tiêu cực. Tại sao lại như vậy? Nhận biết "Ðó là môt ý tưởng tốt vừa mới xuất hiện trong tâm. Tôi phải đưa ý kiến này cho Ông X. để sử dụng".


Tiến Triển Trong Thiền


 



Xin nhớ hành thiền đòi hỏi nhẫn nại, bền bỉ, và cố gắng và một thời gian dài để hoàn thành. Không có con đường tắt. Không có công thức thần diệu.


Tiến trình thiền đòi hỏi làm việc tích cực: như lội ngược dòng.


Bạn sẽ bị thất vọng nếu bạn mong muốn có kết quả tức khắc hay nhanh chóng từ việc hành thiền của bạn. Nếu bạn là người bận rộn với những tham vọng trần tục, bạn không thể tức khắc và tình nguyện an tâm bạn đến mức dẹp hết được tất cả tư tưởng; bạn không thể tức khắc kinh qua được sự tập trung tỉnh thức mạnh mẽ và liên tục.


Nếu bạn hy vọng tiến bộ về thiền, bạn phải đặt mình vào một số luật lệ rèn luyện. Luật lệ rèn luyện rất quan trọng đối với thể lực của một lực sĩ muốn chiếm giải vô địch. Cũng thế luật lệ rèn luyện rất quan trọng cho việc sung sức của một thiền giả muốn đạt được tiến bộ lâu dài. Thiết lập kỷ luật tự giác, phải giống như dây của cây đàn lục huyền cầm không căng quá mà cũng không trùng quá: đừng để mất sự hòa hợp.


Sức khỏe về tinh thần và thể lực tốt rất cần thiết cho sư tiến bộ của bạn. Bạn phải duy trì và tạo ra năng lượng tinh thần và thể xác đầy đủ. Một thân xác hay một tâm yếu đuối và suy nhược là một trở ngại lớn cho việc hành thiền. Bạn phải để cho thân và tâm nghỉ ngơi, thực tập và có chế độ ăn uống đúng cách.


Làm sao bạn có thể phán xét tiến bộ thực sự của bạn về hành thiền? Không mấy dễ dàng cho một người ước lượng sự tiến bộ tinh thần của mình. Không nên xét đoán sự tiến bộ qua trạng thái phớn phở chốc lát, nhận thức biến đổi, tình trạng bất thường của thức, thần thông huyền bí. Sau đây là một luật lệ khắt khe để bạn đo lường sự tiến bộ thực sự của bạn: nếu bạn đạt sự gia tăng về trạng thái hạnh phúc, an lạc và tịch tịnh, và bạn thấy giảm thiểu tình trạng buồn bã, thất vọng, lo lắng, băn khoan, bạn có sự tiến bộ thực sự.


Hành Thiền Trong Ðời Sống Hàng Ngày

 



Trạng thái tập trung tỉnh thức có thể được phát triển như một loại thiền chính thức. Tuy nhiên trạng thái này phải được dần dần chuyển vào đời sống hàng ngày. Việc này cần phải có thời gian, cố gắng và nhẫn nại nhưng bạn có thể áp dụng thiền trong suốt cuộc đời.


Nếu bạn muốn như vậy, bạn có thể luôn luôn tạo những cơ hội phát triển một số dạng thức tập trung tỉnh thức trong đời sống hàng ngày. Trong đời sống hiện đại, có quá nhiều bổn phận phải thi hành, quá nhiều những hành động vội vàng, những lúc căng thẳng, và những tình trạng lo lắng tạo thành sự lãng phí lớn năng lượng tinh thần. Giũa cái náo động của cuộc đời, hãy bỏ ra ít phút trong một ngày để thiền dịnh lặng lẽ hầu làm sung mãn tâm bạn. Ðó là tài sản cho công việc hàng ngày của bạn và cho sự tiến bộ. Bằng cách quan sát tư tưởng và cảm nghĩ của những người khác khi chúng phát sinh trong lề thói hàng ngày, bạn cũng có thể từ từ thăm dò vào ý nghĩa bên trong của sự vật. Bạn có thể tìm thấy sức mạnh và an lạc bên trong.


Nếu bạn có thể tu tập thiền trong đời sống hàng ngày, bạn hoàn toàn sống và đang sống trong hiện tại. Bạn hoàn toàn tỉnh thức về điều xẩy ra bên trong và chung quanh bạn. Trong cái thế giới chao đảo này, bạn sống với nội tâm an lạc và bình thản.


*
*      *


GIỚI HẠNH (SILA)


          - Hòa Thượng Phra Sasana Sobbana - Thái Lan






Giới hay hạnh kiểm đạo đức là nguyên tắc cư xử của con người tạo cuộc sống có trật tự và hòa bình trong cộng đồng. Luật lệ của hạnh kiểm luân lý tìm thấy ở mọi tôn giáo. Những luât lệ này có thể giống nhau về tiêu chuẩn hạnh kiểm ở mức độ nhiều hoặc ít tùy theo chúng bắt nguồn từ vị thầy hay hệ thống tôn giáo nào. Thường thường những luật lệ này bao gồm những bản liệt kê những hành động phải tiết chế, ngụ ý những hành động nào không nằm trong sự cấm đoán là được phép. Một thí dụ là năm giới của người Phật Tử, đó là không giết chúng sinh, không được lấy bất cứ thứ gì nếu thứ ấy không được cho bởi chủ nhân, không tà dâm, không nói dối hay nói lời tội lỗi, không dùng những chất say, nguyên nhân đầu tiên gây ra sơ xuất . Năm giới này là nguyên tắc căn bản của Phật Giáo hầu hết mọi người đều biết đến. Theo thông lệ những giới này được giảng cho họ trong hầu hết các cuộc lễ để họ tự tuyên bố chính thức ý định giữ các giới này. Người dân trong các quốc gia Phật Giáo nhìn thấy hay nghe các thầy tu nói ra những giới này từ khi họ còn nhỏ và chưa hiểu những giới này. Bởi vậy cho nên, đó là điều lợi ích khi xét qui mô mà đa số nhận thức được sự quan trọng của giới và điều mà họ nghĩ về giới, nhất là hầu hết các giới ấn định tiêu chuẩn đạo đức khác biệt lớn với cái lề thói thường ngày của con người. Một số người ủng hộ giới trong khi một số người khác không ủng hộ, một số người tu tập giữ những giới như sau:


Giới Thứ Nhất: Sự cấm lấy đi mạng sống không những chỉ cho loài người mà cho tất cả các sinh vật thuộc mọi loại, cả lớn lẫn bé, từ con sâu con kiến. Mỗi ngày, một số lớn súc vật bị giết để làm thực phẩm, người ăn thịt nhiều, trong khi những người ăn chay lại ít. Trong lãnh vực khoa học, nhiều con vật được dùng trong nhiều công cuộc khảo cứu và thử nghiệm. Trong lãnh vực hành pháp, vũ khí được sử dụng để diệt tội phạm. Những cơ quan bảo vệ luật pháp trừng phạt kẻ phạm pháp. Những kẻ hiếu chiến sử dụng vũ khí để giết hại lẫn nhau. Những hành động kể ra trên đây là những thí dụ không bị coi là bất hợp pháp hay đi ngược lại lề lối hàng ngày trên thế giới. Thực ra, người ta còn có thể cho là sai khi cấm làm những hành động đó, như trường hợp cảnh sát hay quân nhân không làm tròn nhiệm vụ cảnh sát hay quân sự. Ngày nay, nhiều động vật bị cấy những vi trùng, và nhờ những vi trùng, những mầm bệnh, và nhiều loại vi trùng đã được khám phá. Hầu hết mọi thứ đều chứa vi trùng - ngay cả đến nước uống. Tuy có một phần lớn những bất tịnh được ngăn lại bởi máy lọc, vi trùng vẫn qua được. Cho nên vô số vi trùng vào trong cuống họng ta với mỗi ngụm nước. Cũng giống như vậy với thuốc men, bất cứ lúc nào thuốc men được dùng đến, vô số vi trùng bị giết. Những vi trùng có được coi như chúng sinh (trong ý nghĩa của giới thứ nhất) hay không phải là chúng sinh? Nếu như vậy, không ai có thể hoàn toàn tuân theo giới này được. Ngoài ra một số người có quan niệm là người không giết mạng sống con vật cũng nên không ăn thịt, vì nó khuyến khích người giết và người ăn, tội cũng không kém gì người giết.


Giới Thứ Hai: Lấy bất cứ thứ gì mà không được cho bởi chủ nhân hay trộm cắp cũng sai ngay cả về mặt pháp lý. Tuy nhiên, chẳng hạn có ngoại lệ về tài sản của kẻ địch trong trường hợp chiến tranh.


Giới Thứ Ba: Gian dâm là sai. Người phạm tội gian dâm không còn được kính nể và không được ai tin cậy. Tà dâm dính líu tới những người mà mối liên hệ vợ chồng phải tránh theo tập tục, hay với những người cấm bởi pháp luật, hay bởi Pháp, là sai. Cho nên ép buộc bằng phương tiện vũ lực hay tài chánh một người đã có gia đình hay người chưa có gia đình ưng thuận là tà dâm. Mục đích của giới thứ ba là gìn giữ sự kính trọng gia đình và mỗi người liên hệ để bảo vệ tính cách thiêng liêng bất khả xâm phạm. Ngoài ra, kính trọng người, nơi ăn chốn ở, và tài sản phải là một tập quán hành xử, như đã ghi trong sách: "Ðạo Ðức của người lương thiện", chẳng hạn như sau: "Không được vào nhà khi không được mời. Không được nhìn trộm vào phòng người ta từ bên ngoài". Rất thích đáng cho chúng ta áp dụng cung cách lấy từ những giới hay luật lệ luân lý, tất cả những luật lệ ấy nhằm vào khuyến khích hành xử lương thiện và ngăn chặn tính cách lỏng lẻo vô kỷ luật.


Giới Thứ Tư: Nói dối thường được coi là sai. Tuy nhiên, người ta rất ít khi nói thực với nhau và lời nói của họ khó mà có thể tin được. Ðôi khi họ không thể nói được sự thật, chẳng hạn, họ phải nói dối để thoát khỏi bị hại, và bác sĩ nói dối để giúp đỡ tinh thần bệnh nhân. Nói dối vào những trường hợp như vậy có thể là trái ngược với Giới, nhưng không hẳn là trái ngược về mục đích. Giới này mục đích là đem lợi ích hỗ tương bằng cách gắn vào sự thật và tránh sự xúc phạm bằng lời nói. Giống như vậy, lời phát biểu làm hại hạnh phúc người khác, chẳng hạn lời nói hiểm độc, sỉ nhục, hay phỉ báng nhằm nhạo báng người khác và khoe khoang mình là người đáng tin, có thể là sự thực nhưng những lời như vậy bị coi là sai vì chúng trái với Giới. Ðược biết chính Ðức Phật nói điều tin cậy là điều hữu ích và đem lợi lạc. Ngài đặt ra Giới chống lại nói dối, làm nản lời nói hiểm độc, không đứng đắn và vô ích.


Giới Thứ Năm: Mặc dầu luật cấm dùng các chất say, sự tiêu thụ chất say không giảm và những nhà máy cất rượu vẫn hoạt động mạnh mẽ. Những tiệm rượu vẫn được mở cả đêm ngày. Tại các cuộc tiếp tân, hội chợ vân vân.. người ta vẫn uống rượu để kích thích cuộc vui nếu không họ sẽ chán nản và ít người đến. Rượu trở thành lợi nhuận tức mang lại một số doanh thu to lớn mỗi năm.


Thực hành được coi như đúng với người này lại sai với người khác; có thể cả hai ngược lại với giới, như trình bày ở cái ví dụ trước đây. Tất cả những điều này cho thấy ta càng ngày càng không hiểu giới, không công nhận sự quan trọng của giới và không cảm nhận ý nghĩa của giới cho một cuộc sống trên thế gian này. Cho nên đó là lý do tại sao quan điểm sai và đúng sau đây đều có những người biện hộ:


1.  Những nguyên tắc của giới nên được sửa đổi cho phù hợp với những người có nghề nghiệp trong cuộc sống bình thường. Chẳng hạn, một số người cảm thấy Giới Thứ Nhất phải thay đổi cho phép giết theo luật định, nghĩa là chỉ khi giết mà không được luật cho phép thì mới bị cấm mà thôi. Hơn nữa, Giới Thứ Tư, theo họ nghĩ, nên được linh động và nói dối được cho phép khi nói dối để bảo vệ mình và người khác. Cũng vậy với Giới Thứ Năm uống chất say được cho phép vào những dịp nào đó và không được thái quá.


2.  Nguyên tắc của Giới phải để nguyên vẹn nhưng không ai cần thiết phải để ý đến giới. Nếu những ai hành động tôn trọng luật pháp họ được coi như những người vừa ý. Xét cho cùng luật là một loại giới. Luật được đặt ra để bảo đảm hòa bình và hạnh phúc cộng đồng, tuy rằng nó không hoàn toàn căn cứ trên nguyên tắc tâm lý và luân lý hữu lý những điều là nền móng của Giới, một điểm mà ta bàn đến sau này.


3.  Nguyên tắc của giới phải nên để nguyên bất khả xâm phạm, nhưng được lưu ý và giữ từng lúc một tùy theo hoàn cảnh cụ thể. Ða số người Phật Tử thuộc loại người hành động theo đuờng lối này. Họ không thay đổi nguyên tắc của giới luật vì họ tin tưởng hoàn toàn vào giới và giữ giới tùy từng dịp. Chẳng hạn, một số Phật Tử không uống rượu trong một thời gian nào đó, nhưng rồi họ lại bắt đầu uống trở lại. Nếu họ là dân chài lưới, buôn cá, họ không giữ Giới Thứ Nhất, vì nếu giữ giới này, họ không thể đánh cá hay bán cá, nhưng họ có thể không giết hại con vật khác. Nếu họ là những sinh viên y khoa, họ không thể giữ hoàn toàn Giới Thứ Nhất, nếu họ giữ giới này, họ không thể sử dụng động vật trong công cuộc khảo cứu và thử nghiệm, nhưng họ vẫn giữ giới này bất cứ lúc nào có thể thi hành được, có nghĩa là khi giữ giới không trở ngại đến nghề nghiệp và việc thi hành bổn phận của họ.


4.  Nguyên tắc của Giới nên được giữ không thay đổi và phải triệt để thi hành. Rất ít người giữ quan điểm này. Nguyên tắc này có một số hoài nghi về vi trùng, và những ai không triệt để tuân theo Giới có thể có sự nghi ngờ hoặc do tò mò hoặc cho rằng Giới không thể thi hành được. Ðể quyết đ?nh vi trùng phải hay không phải là một chúng sinh (trong ý nghĩa của Giới ), ta nên xét đến cuộc đời Ðức Phật. Bất cứ lúc nào Ðức Phật lâm bệnh, Ngài cho phép Bác Sĩ Jivaka Komarabhacca áp dụng chữa trị bên ngoài hay cho Ngài uống thuốc. Những thầy tu cũng được phép dùng hay áp dụng cách chữa trị để chữa bệnh. Cho nên, chúng ta có thể kết luận Giới Thứ Nhất không áp dụng về vi trùng. Nếu áp dụng, chúng ta không thể ăn hay uống gì được, ngay cả thở nữa. Giới phải là những luật lệ về hạnh kiểm mà bất cứ ai cũng có thể theo được trong một cách thức bình thuờng thực tiễn và không cần đến dụng cụ như kính hiển vi. Việc sử dụng những dụng cụ này dành riêng cho những người làm nghề y khoa hay khoa học.


Về việc tiêu thụ thịt như thực phẩm, chính các Phật Tử cũng chia thành hai phái. Một phái cho rằng ăn thịt thì cũng không kém tội lỗi như hành động của người giết. Họ cho rằng nếu thịt không được dùng làm thực phẩm, thì không có nguyên nhân phải giết chóc súc vật, cho nên tiêu thụ thịt chịu trách nhiệm trực tiếp về việc giết, vì vậy ăn thịt là sai. Giới Luật hay kỷ luật cho phép các thầy tu ăn thịt trong ba trường hợp, đó là: nếu họ không thấy và không nghe thấy tiếng kêu của con vật bị giết, và không có lý do nào để nghi ngờ là giết để cho họ ăn cũng như chống lại sự giết hại để đem bán. (Cũng có luật lệ cấm thầy tu ăn thịt sống hay mười loại thịt bị cấm trong do có thịt hổ và thịt voi). Theo phái này, nhà sư thuộc trường phái Phật Giáo Nguyên Thủy, không được lựa chọn và tự do ăn thịt. Họ có thể dùng rau và thịt cung cấp không phạm vào ba trường hợp ghi trên được tuân hành và thịt không phải là một loại bị cấm. Các thầy nhận bất cứ thứ gì dâng cho quý thầy, dù là rau hay thịt đúng loại. Ðiều này không trái với Giới, vì lẽ tấm lòng nhân hậu của những người Phật Tử như vậy, nhất là các thầy tu tràn ngập với lòng lương hảo và từ bi vô bờ bến đối với loài vật. Không bao giờ họ là nguyên nhân để súc vật bị giết. Hơn thế nữa, để đối lập với quan điểm rằng ăn thịt là sai, họ đưa ra lập luận như sau: Nếu tiêu thụ thịt sai về mặt đạo đức thì việc dùng da, xương, sừng cũng phải cấm. Việc sử dụng này phải coi như sai. Cả hai phái vẫn còn mâu thuẫn về vấn đề này, và một số thành viên của họ vẫn còn có các lập luận. Nhưng có một số người không lý luận, để toàn bộ vấn đề tùy thuộc lương tâm của cá nhân. Ta không nên bắt người khác phải chấp nhận quan niệm riêng của mình. Làm như vậy gây ô nhiểm tinh thần, cho nên phải tránh.


Câu hỏi được nêu lên là vì mục đích mà Ðức Phật hy vọng phục vụ nhân loại bằng cách đặt ra Giới ấn định sự tiết chế không thỏa hiệp mà chỉ có một số ít người có thể tuân hành, phải chấp nhận là không ai cho là có thể biết được thâm ý của Ngài. Ý định đúng của Ngài là làm như vậy; tuy nhiên ta có thể thu thập lý do từ nhiều nguyên tắc nêu trong Pháp. Ðức Phật dạy chúng ta so sánh ta và người khác bằng cách nói: "Tất cả chúng sinh đều sợ hãi trừng phạt và cái chết. Mạng sống quý giá với tất cả chúng sanh (cũng như với chúng ta). Hãy đặt chúng ta vào chỗ của chúng, chúng ta hiểu rằng chúng ta, cá nhân, không nên giết mà cũng không nên khiến người khác giết". Trên nguyên tắc của Pháp, Ðức Phật muốn chúng ta hiểu, thâm nhập cảm nghĩ của người khác là tất cả chúng sinh quý đời sống cũng như chúng ta quý và đều sợ hãi cũng không kém gì nhau về cái chết. Ðó là lý do tại sao, như một vấn đề công lý đơn giản, Ðức Phật đã đặt ra Giới Thứ Nhất. Giới Thứ Hai được hình thành là để khuyến åkhích tôn trọng lẫn nhau về quyền sở hữu của mỗi người. Giới Thứ Ba khuyến khích sự tương kính gia đình của nhau. Giới Thứ Tư bảo vệ quyền lợi hỗ tương bằng sự thật. Giới Thứ Năm giúp chúng ta tránh bất cẩn và sao lãng. Nếu chúng ta muốn giữ gìn cẩn thận của cải, gia đình, tín ngưỡng, chúng ta không nên xâm phạm quyền của người khác.


Tất cả những Giới và luật lệ hạnh kiểm đều căn cứ duy nhất vào nguyên tắc của một nền công lý toàn hảo. Chúng cho thấy sự kính trọng đời sống, nhân quyền, tài sản,... của Phật Giáo với mọi người. Ðó là sự thật thế gian hay quy ước. Nếu Ðức Phật thiết lập Giới linh động và có thể áp dụng theo lời mong ước của đại chúng, thì giới ấy không phù hợp với bản chất của một nền công lý toàn hảo. Chính Ðức Phật cũng cho thấy chính Ngài thiếu từ bi với những con vật mà việc giết chúng được cho phép. Ðiều này không phù hợp với đặc tính của Ðức Phật tràn đầy từ tâm với tất cả chúng sinh. Một lý do khác đã nói ở phần đầu là Giới khuyến khích "một lợi ích đặc biệt". Ðó có nghĩa là hậu quả tối thượng của sự tôn trọng giới là giải thoát khỏi tất các ô trược. Giới là bước đầu tiến tới mục đích ấy. Giữ được tất cả giới, dù rằng chỉ có năm giới, có thể tiến tới một mức độ cao hơn mà ở đó lợi ích "rất đặc biệt" đạt được. Ðiều có lẽ quan trọng đặc biệt về giới là khám phá ra tại sao người ta chú ý hay không chú ý đến việc giữ giới. Một số lý do ấy như sau:


1.  Do sự khắt khe của Giới:
 

Thí dụ cấm lấy đi mạng sống của một chúng sinh. Giả sử những luật lệ hạnh kiểm đặt ra trong đường lối thích nghi hơn, khoan dung một số vi phạm chúng ta đã bàn, thì như vậy giới được nhiều người hay ít người tuân theo? Rõ ràng, không ai dám bảo đảm sẽ xẩy ra ra sao vì lẽ ta có cảm tưởng chung là luật lệ tinh thần, đặc biệt những luật liên quan đến những điều theo ý nghĩa thế gian hoặc ý nghĩa pháp lý bị coi là sai, lại luôn luôn bị vi phạm dù là giới thứ nhất hay bất cứ giới nào khác. Ðiều này chứng tỏ sự giữ giới không phải là do sự khắt khe. Thông thường, khuynh hướng tự nhiên của ta là theo tất cả những hành động đem tiện nghi và thuận lợi cho chính mình. Mọi quốc gia đều có luật lệ của quốc gia ấy và mọi tôn giáo đều có giới luật của tôn giáo ấy. Cả đến một số luật rất linh động và dễ thích nghi, vẫn có thể chỉ có một số ít dân chúng vi phạm luật lệ ấy. Cho nên lý do vi phạm nằm trong chính cá nhân ấy; Ða số có khuynh hướng tự nhiên không lưu ý hay thay đổi luật cho phù hợp để thuận lợi cho họ và có đủ khả năng để làm như vậy.


2.  Do chính những cá nhân:


Rồi tại sao cá nhân vi phạm luật, dù việc này thường được coi là sai theo luật pháp? Nguyên nhân của sự cư xử như vậy bao gồm chính trong cá nhân con người và chắc chắn là do tham, sân và si, sinh ra từ trong tâm như những ô trược và đến lượt lại vắng bóng sự xấu hổ và kinh sợ tội lỗi. Cho nên khi thay đổi cần thiết, thay đổi không phải là ở nơi nguyên tắc của giới mà là sự thay đổi của tâm có nghĩa là giảm thiểu ô trược hơn là làm tăng chúng lên trong đường lối biết xấu hổ và sợ tội lỗi - biết xấu hổ và kinh sợ gây tội lỗi phát hiện trong tâm. Bằng cách hành xử như vậy, khả năng giữ giới của chúng ta sẽ trở nên to lớn hơn. Giữ giới tốt hơn không có nghĩa là tiết chế mọi thứ bắt phải làm theo. Tiết chế từ điều đuợc coi như sai theo quan niệm trần tục hay theo pháp lý chính nó là hạnh kiểm có thể chấp nhận được.


3.  Do Sự Cần Thiết:
 

Như những trường hợp sau đây:


Vi phạm Giới Thứ Nhất để bảo vệ tài sản của mình, đời sống, quốc gia, tôn giáo, vua chúa, như xẩy ra tại chiến địa hay khi ta phải giải quyết với tội phạm hay kẻ địch. Vi phạm Giới Thứ Hai để giữ mạng sống của mình vì đói hay thực sự nghèo khổ. Dường như không có lý do nào để vi phạm Giới Thứ ba vì giữ giới này chắc chắn không giết ai cả. Vi phạm Giới Thứ Tư vì hạnh phúc của chính mình. Nhiều trường hợp nói ở trên có thể kể là trường hợp cần thiết, thí dụ, nếu một người làm nghề đánh cá hay một sinh viên y khoa.


Khi ta tự hỏi, chẳng hạn, liệu có cần thực sự để giết hay trộm cướp, ta hiểu rằng trường hợp này rất hiếm. Kết quả là cả đến ý định không vi phạm giới, đến chừng mực ngoại trừ khi không thể làm gì khác được, và phải tôn trọng sự cần thiết cho phép khiến chúng ta hiểu năm giới có thể giữ được, đến một mức độ rộng lớn không khó khăn và mất mát mối lợi trần thế nào cả.


4.  Do Sự Thiếu Hỗ Trợ Và Bổ Sung Pháp.
 

Thiếu sự bổ sung Pháp vào mỗi giới cũng có thể là nguyên nhân của sự vi phạm. Tâm từ hay lòng từ ái phải được trau dồi như một khía cạnh bổ sung của Pháp cho Giới Thứ Nhất. Samma-avija hay Chánh Mạng phải được thực hành như khía cạnh bổ sung của Pháp cho Giới Thứ Hai. Santutthita hay sự mãn nguyện với một người hôn phối là một khía cạnh của Pháp phải được phát triển để bổ sung cho Giới Thứ Ba. Tính tin cậy là một khía cạnh của Pháp phải được tuân hành để bổ sung cho Giới Thứ Tư. Lưu ý và Thận trọng phải được gắn bó như một khía cạnh để bổ sung Giới Thứ Năm. Giải thích một số bổ sung của Pháp như sau: Chẳng hạn, tâm từ bổ sung Giới Thứ Nhất, tâm từ hiện hữu nơi mọi chúng sinh, xua đuổi tất cả ý muốn làm hại. Không nói gì đến tâm từ hay lòng từ ái bộc lộ bởi cha mẹ cho con cái, tâm từ đối với gia súc như chó và mèo cũng đủ mang đến sự chăm sóc to lớn cho chúng. Không có tâm từ nhưng thay vào bằng sân hận và ganh ghét, những gia súc này dễ dàng bị tiêu diệt. Chánh Mạng bổ sung Giới Thứ Hai có thể giải thích như sau . Nếu một người lười biếng trong việc làm hay áp dụng một cách sống sai lầm cho cuộc sống của mình, người đó khó có thể giữ được Giới thứ hai. Vì chúng ta hàng ngày phải ăn, mỗi người chúng ta phải có thực phẩm cho mình, cho nên phải có một phương tiện để sống, một phương tiện chính đáng cho việc này.


5.  Do Sự Vắng Mặt Của Người Lãnh Ðạo giữ Giới.
 

Ðây là một câu chuyện minh họa, có một phương ngôn trong Kinh Jataka có thể tóm tắt lại như sau: "Khi một đoàn trâu bò di chuyển, nếu con đầu đàn đi lạc, cả đoàn trâu bò bị lạc. Cũng như vậy với con người. Nếu người lãnh đạo được chỉ định thực hành không đúng Pháp hay không chính đáng, quần chúng cũng thực hành như vậy. Cả quốc gia đau khổ nếu người lãnh đạo không tôn trọng Pháp. Khi cả đoàn trâu bò di chuyển, nếu con đầu đàn đi đúng đường, cả đoàn trâu bò cũng đi đúng đường. Nếu người lãnh đạo được chỉ định tôn trọng Pháp, quần chúng cũng làm như vậy. Cả quốc gia sẽ vừa lòng nếu người lãnh đạo giữ Pháp. Câu nói của Phật Giáo rất rõ ràng. Cách hành xử của người lãnh đạo là một hậu quả to lớn cho quần chúng vì họ không tránh khỏi theo gương của người ấy.


Những lý do trên về việc liệu có muốn hay không muốn giữ giới, mỗi lý do có thể có ý nghĩa với giới. Tóm lại, dù Giới được giữ hay không được giữ bởi những cá nhân trong xã hội, tùy thuộc vào việc giữ giới có mang lại sự thỏa mãn phù hợp với tầng bậc xã hội của họ hay không.


Trong phương diện ấy, một số nói lên ý kiến rằng Giới có thể coi như nguyên tắc căn bản áp dụng trong một đường lối thích hợp sẽ phù hợp với tình trạng của riêng mỗi người. Ðiều được coi như thích hợp tức phù hợp đúng với mục đích của giới chỉ khi nó được áp dụng không có thành kiến của người khác và không phải ưu tiên cho mình, vì mục đích của giới là để tránh làm hại người khác. Ngoài ra, chúng là những bước đầu tiến đến tập trung (định) và tuệ giác. Vì giữ giới không phải là cứ giữ giới đơn thuần mà phải phù hợp với mục đích, nó sẽ khác biệt theo một cách nào đó tùy theo tình trạng hay nghề nghiệp của mỗi cá nhân. Chẳng hạn, người bình thường giữ giới mong ước hòa bình và đem mãn ý cho tất cả gia đình và quốc gia, có hình thức này, với các nhà sư mong ước đạt bình diện cao của Pháp lại là một dạng thức khác. Tuy nhiên cả hai dạng thức dẫn đến mục tiêu mà vì nó việc giữ giới được thiết lập. Hơn nữa, Giới hay luật lệ hạnh kiểm luân lý cũng là yếu tố chính của sự phát triển quốc gia, sức mạnh mang nền phồn thịnh kinh tế và sự mãn ý thông thường. Không có giới, năng suất của cá nhân sẽ có khuynh hướng bị loại bỏ và tự tiêu diệt. Nơi mà năng suất của một cá nhân cao nhưng có hại cho người khác, không giúp gì thêm cho cộng đồng. Ðúng hơn là hiệu suất của cộng đồng giảm thiểu và quả là rất khó khăn trong việc phát triển tiến bộ và thịnh vượng chung. Cả đến từ quan niệm này, có thể nhìn thấy nhiều người giữ giới theo đường lối thích hợp với tình trạng riêng của họ, với hiểu rằng Giới có thể mang phồn thịnh cho cộng đồng.


Thông thường, người dân trong các xứ Phật Giáo biết làm sao giữ giới hay luật lệ tinh thần. Họ cũng biết năm giới không phải là cản trở thịnh vượng của một cá nhân hay xứ sở. Nguyên nhân lo lắng không nằm trong thực tế là nhiều người triệt để giữ giới, mà là trong thực tế quá nhiều người vi phạm giới. Việc này đi xa đến nỗi những hành động ấy phải nên tránh vì chúng thường bị coi như có hại theo pháp luật lại vẫn rất phổ thông. Ðiều quan trọng cần phải làm lại cho đúng là ở nơi cá nhân hay hoàn cảnh như đã được đề cập tới. Nếu mỗi người hành xử trong đường lối giảm thiểu những ô trược và sản sinh đủ "biết xấu hổ - kinh sợ tội lỗi" trong tâm, và nếu đồng thời có những hoàn cảnh tạo mãn ý và thoải mái, như tự do thực thi chánh mạng của một người trong bầu không khí hòa bình và an ninh, và khả năng nuôi sống đầy đủ cho mình và gia đình, thì không có nguyên nhân vi phạm giới và người ta sẽ chú ý giữ giới và Pháp bổ sung, như trau dồi tâm từ (lòng từ ái) đối với người khác và chuyên cần theo đuổi chánh mạng (lối sống chánh đáng). Nếu những nhà lãnh đạo và giới chức hành chánh ở mọi cấp bực đều cũng chú ý đến giới, nếu họ chuẩn bị để tôn trọng giới và không thi hành nhiệm vụ của họ trong một đường lối có hại, mà trong đường lối mang lợi ích cho hạnh phúc người dân, nếu mọi khu vực của cộng đồng đều cùng duy trì hành xử tốt như vậy, tiêu chuẩn của luân lý chắc chắn sẽ cải thiện, vì căn bản tâm của mỗi cá nhân đều mong ước được tốt đẹp, cho nên người dân thực sự nhìn thấy lợi ích của Giới. Nếu sinh nhai của một người trở nên khó khăn hay nguy hiểm, những giải pháp trong những trường hợp bất ngờ này phải là ưu tiên số một. Trong Phật Giáo, Ðức Phật dạy lợi ích hiện tại cần phải được lưu ý đầu tiên, chẳng hạn bằng cách chuyên cần và làm việc để kiếm sống. Rồi sau đó, Ngài khuyên dồng thời nghĩ đến lợi ích tương lai, chẳng hạn, bằng cách có niềm tin và tôn trọng Giới.


Khi có một sự phản đối kịch liệt về tình trạng suy đồi bắt nguồn từ sự không tôn kính giá trị tinh thần, thanh niên cũng như người lớn tuổi kêu gào phải gìn giữ các giá trị ấy như đang xẩy ra trong hiện tại. Nhưng lý do trình bày trong những chương này phải được ghi nhớ bởi tất cả chúng ta, nắm tay nhau để cùng cải thiện tình hình bằng cách giải quyết nguyên nhân thực sự. Những đạo sư tôn giáo chỉ có thể chỉ đường. Nhiêm vụ này không thể làm bởi một nhóm người. Tất cả mọi khu vực của cộng đồng phải cùng nhau hợp tác phù hợp với nhiệm vụ của mình. Tất cả mọi người trong chúng ta phải thi hành nhiệm vụ của chúng ta với lòng thành thật. Mỗi người phải xét cách hành xử của mình và cố gắng loại bỏ hạnh kiểm bất thiện bằng cách giữ Giới. Lúc ấy tôn trong luật lệ hạnh kiểm luân lý không khó, việc này có thể làm được nhờ một thầy tu truyền Giới hay tự mình giữ Giới không cần phải qua các nhà sư. Ðiều quan trọng là sự quyết tâm tôn trọng Giới, đó là tiết chế một số hành động. Tuy sự tiết chế này có thể không đầy đủ trong ý nghĩa giữ giới toàn vẹn, và có thể áp dụng đối với những hành động coi là sai và bất thiện trong ý nghĩa trần thế và pháp luật, tuy nhiên còn tốt hơn là không tiết chế gì cả.


Giới luật hoàn hảo được truyền thụ đầy đủ trong mọi phương diện là sự thọ trì không có nghĩa phải hoàn toàn đúng ngay từ lúc bắt đầu. Không ai có thể thực hiện được như thế. Sự thực hành giữ giới phải từ từ, từng bước một, từ giai đoạn thấp nhất đến giai đoạn cao. Cho nên tại sao những lời sau đây được sử dụng: "Tôi cam kết thi hành luật lệ rèn luyện để giữ mình khỏi phạm vào hạnh kiểm thế này thế nọ". Thực chất là đồng ý rèn luyện về Giới hay luật lệ luân lý. Nó cũng có nghĩa là sự giữ Giới vẫn chưa được toàn hảo. Nó cũng giống như sự nghiên cứu bất cứ một ngành học nào. Nếu ta còn học một đề tài, có nghĩa là ta chưa biết đề tài đó tới chỗ toàn bích. Bất cứ ai biết được trọn vẹn thì không cần phải huấn luyện nữa. Một người đang học không phải chịu trách nhiệm về cái ngu muội của điều mà người ấy chưa học.





Còn nữa...

Thích Tâm Quang dịch
Theo Gems of Buddhist Wisdom

Viết bình luận mới

Tên bạn
Email
Nội dung
 
  • Ngắm vẻ đẹp lộng lẫy của ngôi chùa dát vàng nổi tiếng Ngắm vẻ đẹp lộng lẫy của ngôi chùa dát vàng nổi tiếng
  • Bộ hình ảnh Thập nhị Dược Xoa Thần tướng (Thích Minh Hoàng) Bộ hình ảnh Thập nhị Dược Xoa Thần tướng (Thích Minh Hoàng)
  • Chùm ảnh "Hoa Hồng xuống phố" - TP.HCM và Hà Nội Chùm ảnh "Hoa Hồng xuống phố" - TP.HCM và Hà Nội
  • Chùm ảnh: Tranh thư pháp mùa Vu Lan 2012 (Minh Hoàng) Chùm ảnh: Tranh thư pháp mùa Vu Lan 2012 (Minh Hoàng)
  • Chùm ảnh: Nghệ An tràn ngập sắc màu Phật giáo Chùm ảnh: Nghệ An tràn ngập sắc màu Phật giáo
  • Đưa quá khứ bước ra từ những pho tượng giả cổ Đưa quá khứ bước ra từ những pho tượng giả cổ
  • Lược sử Ðức Phật Thích Ca từ thành đạo đến nhập niết bàn (HT.Thiện Hoa) Lược sử Ðức Phật Thích Ca từ thành đạo đến nhập niết bàn (HT.Thiện Hoa)
  • Đa dạng, hân hoan Phật đản tại Hàn Quốc Đa dạng, hân hoan Phật đản tại Hàn Quốc
  • Người giữ hồn “Quốc hoa Tây Hồ” Người giữ hồn “Quốc hoa Tây Hồ”
  • Chùm ảnh: Hoa "Đức Phật" rực sáng đường phố Hà Nội Chùm ảnh: Hoa "Đức Phật" rực sáng đường phố Hà Nội

Đánh giá của bạn về giao diện website: tongiaovadantoc.com

Rất tiện lợi và chuyên nghiệp
Giao diện đẹp dễ dùng
Tôi có một góp ý cho TG&DT
Cũng bình thường
xem tin tức, Thế giới tin tức Kpop, Kho sim thẻ, sim số đẹp