Phần 2, chương 3:
Chương 3
MỞ TRƯỜNG KỸ THUẬT
VÀ HỌC THỰC DỤNG
Bản điều trần số 27 dưới đây sẽ cho thấy một phần lớn chiêu bài canh tân của Nguyễn Trường Tộ:
Nhận định bản điều trần số 27: Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều).
Tổng quát, đây là một trong ba bản điều trần có tầm vóc. Giọng văn điêu luyện có tính thuyết phục và nhiều đoạn rất thực tế đã mô tả được một số bệnh trạng của đất nước ta thời bấy giờ. Cách trình bày, chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ dường như có thành tâm thiện chí đối với nước nhà.
Để đánh giá bản điều trần này được chính xác, chúng ta nên lồng nó vào bối cảnh lịch sử nước nhà và vào thời kỳ mà giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ viết bản điều trần vào tháng 11/1867. Để dễ theo dõi, tôi chia bản điều trần làm nhiều đoạn.
1.Phần mở đầu: Gồm 6 trang mô tả tình hình chung của các nước lúc bấy giờ. Phần này chúng ta cũng thấy ông đưa ra nhiều nhận xét chí lý chí tình như:
"Vận hội trong thiên hạ cũng thế. Những việc làm thời xưa chỉ đủ đem lại những nhu cầu cần thiết cho nhân loại, nhưng chưa đủ tập họp để làm nên công dụng hay ho gì. Những việc sửa sang giúp đời trị thế, cũng chẳng qua thời thế lúc bấy giờ phải như vậy, mới đủ dùng được như vậy mà thôi. Nhưng đến đời sau xem lại, những việc làm ấy không khác nào trò nghịch đất khi còn bé" (Tế cấp bát điều, TBC, Sđd, tr. 225).
Hoặc: "Chỉ vì nay ta không thể phát huy vũ lực ra các nước xung quanh, nên mới bị các nước mang binh đến ta. Dù ta không chủ tâm đánh ai, nhưng cũng phải sửa sang biên thùy, siết chặt hàng ngũ trong nước, để có một lực lượng có thể đánh được người ta, nhưng chỉ chờ ai đến thì đánh mà thôi. Như vậy mới khỏi hoạn nạn" (Bản di thảo đã dẫn, TBC, tr. 226).
Đọc đoạn mở đầu này, độc giả sẽ tìm thấy những ý tưởng hay và những thích thú khác mà tôi chỉ đơn cử hai thí dụ.
Tuy nhiên, về phương diện tình thế và sử liệu có rất nhiều chỗ sai, mặc dù có lẽ không quan trọng lắm cho bài điều trần này, nhưng tôi vẫn nêu ra vài điểm để độc giả rõ thêm và tránh những dẫn chứng sai lầm nếu ai có sử dụng đến.
Thí dụ 1: Nguyễn Trường Tộ đặt nghi vấn: "Người Anh đã xin nhà Thanh cho lập một quân cảng ở Quỳnh Châu là ý muốn gì?".
Chúng ta nhớ rằng, Nguyễn Trường Tộ viết bản điều trần này vào năm 1867, nghĩa là 27 năm sau khi quân Anh tấn công Chiết Giang (năm 1840) lên Trực Lệ rồi thẳng vào Thiên Tân, quân Trung Hoa thua phải ký hòa ước Nam Kinh... mở năm cảng: Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải, cắt đứt Hương Cảng tặng cho Anh. Xin xem lại đoạn Tình hình Trung Hoa và Hồng Kông trong phần nhận định di thảo số 5: Lục lợi từ.
Và sau chiến tranh Nha phiến lần thứ hai (1856-1860), Trung Hoa thua, nhà Thanh mở thêm 7 thương khẩu khác cho Anh và Pháp (đã trình bày trong Tình hình Trung Hoa và Hồng Kông). Do đó, câu hỏi của Nguyễn Trường Tộ nêu ra ở trên không cần thiết và không đúng.
Thí dụ 2: Nguyễn Trường Tộ viết:
"Người Pháp đang còn tính ngược sông Cửu Long chiếm Tây Tạng rồi sau đó phía đông sẽ xuôi dòng Kim Sa xuống Tứ Xuyên vào giữa lòng Trung Hoa..." (TBC, Sđd, tr. 227).
Sai, như đoạn trước về tình hình Trung Hoa và Hồng Kông mà chúng ta đã biết, chiến tranh Nha phiến lần thứ hai (1856-1860), Anh và Pháp hợp tác với nhau để đánh Trung Hoa, nhà Thanh thua phải mở thêm 7 cửa khẩu. Còn Tây Tạng ở giữa Ấn và Trung, là một quốc gia bị tuyết phủ, hầu như quanh năm, Pháp chiếm Tây Tạng làm gì? Chỉ có Trung Hoa, nhất là Anh chiếm Tây Tạng để tránh sự dòm ngó của các nước vào thuộc địa Ấn Độ của Anh.
Tôi chỉ nêu hai trong nhiều điểm mà Nguyễn Trường Tộ đã lạc dẫn lịch sử.
2. Tám điều cần phải làm gấp của Nguyễn Trường Tộ đề nghị:
2.1. Điều thứ nhất: "Xin gấp rút việc sửa đổi võ bị".
Cũng như đoạn mở đầu bản điều trần, Nguyễn Trường Tộ dường như có nhiều ý kiến hay. Nhưng nếu đọc cuốn Tôn Ngô binh pháp, chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ lấy ý trong cuốn sách này. Đã vậy, ý của ông so ra còn kém xa, sau đây là một số dẫn chứng.
a.Nguyễn Trường Tộ viết: "Cái khó của môn học này là người học võ học các sách binh thư đồ trận. Học sách xong phải thể nghiệm tập tành. Học cái gì tập luyện cái đó. Óc sáng suốt, cái nhìn nhanh như thần mới nắm được cốt cách mau lẹ...".
Tôn Ngô binh pháp: "Việc binh, lấy trá mà thành. Lấy lợi mà động. Lấy hợp tan làm biến hóa. Nhanh như gió. Thong thả như rừng. Lấn cướp như lửa. Bất động như núi. Khó biết như mây" (Tôn Ngô binh pháp, Ngô Văn Triện dịch, tr. 121-122).
b. Nguyễn Trường Tộ: "Kẻ học võ học các phép động tĩnh đánh đấm đúng chân truyền mới không sai khi ứng dụng...".
Tôn Ngô binh pháp: "Tính giỏi thì biết cái thế đắc thất. Tác động để biết cái động tĩnh. Nghiên cứu địa hình để biết sống chết. So đọ để biết chỗ thiếu thừa" (TNBP, tr. 108-109).
c. Nguyễn Trường Tộ: "Kẻ học võ đối với những nơi hiểm yếu có tính cách sinh tử, những hình thể có tính cách quyết định thắng bại, phải giả tạo hiện địa, lập trận đồ đích thân luyện tập (Binh pháp phương Tây như thế) mới thể nhận được rõ ràng...".
Tôn Ngô binh pháp: Ứng biến về địa thế: "Tránh chỗ bằng, đón chỗ nghẽn, lấy một đánh mười đâu bằng chỗ nghẽn, lấy mười đánh trăm đâu bằng chỗ hiểm, lấy trăm đánh nghìn đâu bằng chỗ ngẵng" (TNBP, tr. 281).
d. Nguyễn Trường Tộ: "Kẻ học võ quan sát đồn bót xem mặt nào có thể đánh được giữ được, hướng nào có thể ra được vào được, phải chính mắt xem xét rõ ràng hình thế địa lý và ghi nhớ trong lòng (Võ quan phương Tây như thế).
Tôn Ngô binh pháp: "Người giỏi đánh quân địch không biết đâu mà giữ, người giỏi giữ quân địch không biết đâu mà đánh" (TNBP, tr. 89).
e. Nguyễn Trường Tộ: "Con nhà võ khi ra trận tên đạn trước mặt, gươm giáo sau lưng, tiến lên thì chết vào tay giặc, thoái lui thì luật nước không cho. Lệnh xuất quân đã ban thì quên nhà, trống thúc quân đã giục thì quên mình...".
Tôn Ngô binh pháp: "Ra đến cửa như thấy quân địch, khi lâm trận không nghĩ đến sự sống, phá được quân địch mới tính chuyện ra về" (TNBP, tr. 278).
g. Nguyễn Trường Tộ: "Con nhà võ biết bắc cầu đắp đường, dựng đồn lập lũy. Công việc của họ làm thiên biến vạn hóa. Nương theo địch mà tìm cách thắng địch, tùy theo địa thế mà lập cách phục binh, xuất quỷ nhập thần không theo một phương thức sẵn có hay một khuôn khổ nhất định. Cho nên, cái kỳ diệu của nhà binh không thể báo trước được".
Tôn Ngô binh pháp: "Việc dụng binh hễ được thế thì mạnh mất thế thì yếu. Mạnh thì hăm hở, yếu thì rụt rè" (TNBP, tr. 89). "Dọa phía Đông, đánh phía Tây, nhử phía trước đánh úp đằng sau, biến hóa khôn cùng" (TNBP, tr. 98). "Tiến mà họ không chống được bởi ta xông vào chỗ thực, lui mà họ không đuổi kịp vì ta nhanh chóng mà họ không thể theo" (TNBP, tr. 100).
"Tránh lúc địch hung hăng, đánh úp lúc chúng trễ biếng. Lấy gần đợi xa, lấy nhàn đợi nhọc, lấy no đợi đói" (TNBP, tr. 128-129). "Mồi nhử chớ ăn, giặc cùng chớ bách" (tr. 133-134).
Sáu đoạn so sánh trên có lẽ đã cho chúng ta biết ý kiến về võ bị của Nguyễn Trường Tộ phát xuất từ đâu. Vậy mà ông luôn luôn cổ võ theo lối học thực dụng, tổ chức theo kiểu Tây. Hai trong sáu thí dụ nêu trên, Nguyễn Trường Tộ còn chú thích "binh Pháp Tây phương như thế" (mục c) và "quan võ phương Tây như thế" (mục d). Theo tôi, Nguyễn Trường Tộ không thông thạo ngoại ngữ trừ chữ Nho. Do đó, lúc nói rằng, "phương Tây như thế" là nói cho oai, chứ thực tế cũng cần xét lại.
Thay vì đề nghị thiếu chuyên môn và không có gì mới về việc chỉnh trang võ bị như trên, Nguyễn Trường Tộ nên đề ra một phương pháp kháng chiến mới: Đánh theo lối du kích như thế nào? Cướp khí giới Pháp để dùng làm kiểu mẫu đúc súng mới, toàn dân bất hợp tác, con chiên không nên hỗ trợ giặc Pháp... Nếu Nguyễn Trường Tộ có tâm hồn vì dân vì nước, nhất là hơn ai hết, ông là người ít ra am hiểu tình hình và chương trình đồng hóa của Pháp, vì ông là người thông minh, du lịch nhiều, ở Pháp nhiều năm và gần gũi các linh mục, giám mục, nhất là giám mục tình báo Ngô Gia Hậu (Gauthier), mà quý vị sẽ thấy ở đoạn kế tiếp. Còn đoạn đề nghị sau đây của Nguyễn Trường Tộ chúng ta nên dè dặt:
"Giờ đây trong số các quan viên văn võ có những vị nào quê ở lục tỉnh Nam Kỳ, triều đình phải đặc biệt ưu ái họ. Cho họ thường xuyên về thăm anh em họ hàng. Phải đãi ngộ họ thân mật nồng nàn hơn trước, khuyên bà con họ hàng của họ không nên dời nhà cửa đi nơi khác, đừng lánh đi xa" (di thảo số 27, TBC, Sđd, tr. 239).
Lý do cần dè dặt vì, sau khi chiếm Nam Kỳ, hầu hết dân chúng tại đó không chịu ra hợp tác với Pháp, người thì theo kháng chiến, kẻ theo chiến dịch đồng không nhà trống làm cho chính quyền Bonard bối rối (xin xem đoạn cuối, phần trước). Vậy, lời khuyên của Nguyễn Trường Tộ như trên xem ra vô tình hay cố ý trúng kế và làm lợi cho Pháp.
2.2. Điều hai: Xin hợp tỉnh, huyện để giảm bớt số quan lại và khóa sinh.
Chúng ta không có dữ kiện về số dân trong mỗi tỉnh, huyện thời bấy giờ để nên hợp 2 hoặc 3 tỉnh làm một nhằm giảm bớt số quan lại và nhân viên làm việc. Hoặc, nếu có tỉnh, huyện dân số quá đông, thì nên chia ra để công việc hành chính được thực hiện nhanh chóng khỏi bắt dân phải đợi chờ phiền toái. Do đó, không nhất thiết phải hợp tỉnh, huyện mà có nơi phải phân chia.
2.3.Điều ba: Gây tài chính bằng cách đánh thuế xa xỉ. Điều thứ 5: Điều chỉnh thuế ruộng đất. Điều thứ 6: Sửa sang lại cương giới. Điều thứ 7: Nắm rõ dân số.
Các đề nghị trong điều thứ 3, 5, 6 và 7 nói trên, tôi thấy rất cần thiết và bất kỳ ở hoàn cảnh nào cũng có thể thực hiện được. Những đề nghị đó không những thích hợp cho thời xưa mà còn cho ngày nay nếu các chính phủ, nhất là trong các quốc gia còn lạc hậu.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng nhìn vào bốn đề nghị vừa nêu trên của Nguyễn Trường Tộ để nghĩ rằng, lúc bấy giờ và các triều đại trước đó không quy định các thứ thuế, không đo đạc ruộng đất và không kiểm kê dân số. Thật vậy, theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, quyển 2, Bộ Giáo dục, Trung tâm Học liệu xuất bản, 1971. Đại Nam, Hoa Kỳ in lại, từ trang 173 đến trang 177 cho chúng ta một vài chi tiết về thời Gia Long như sau:
a. Việc tài chính:
Thuế đinh, thuế điền đều định lại cả. Thuế điền thì chia ra làm 3 hạng: Nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp thóc 20 thăng; nhị đẳng điền 15 thăng; tam đẳng điền 10 thăng. Còn thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp 10 thăng.
Thuế đinh thì lệ định: Từ Nghệ An ra đến nội ngoại Thanh Hóa, mỗi suất đồng niên phải chịu: Thuế thân 1 quan 2 tiền. Mân tiền 1 tiền.
Cước mễ 2 bát 5 nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên mỗi suất đinh đồng niên phải chịu thuế.
Lệ giảm thuế: Thuế lệ tuy định như vậy, nhưng năm nào ở đâu mất mùa, như là bị hoàng trùng, đại hạn hay là nước lụt, ... thì nhà nước chiếu theo sự thiệt hại nhiều ít mà giảm thuế cho dân.
Đinh bạ: Lệ định 5 năm một lần làm sổ đinh, trong làng từ chức sắc cho đến quân dân, đều phải vào sổ. Kể từ 18 tuổi trở lên, 59 tuổi trở xuống, đều phải ghi vào sổ.
Điền bạ: Các làng, hoặc ruộng mùa, hoặc ruộng chiêm, hoặc ruộng hai mùa, hoặc có đất hạng nào, bao nhiêu mẫu, sào, thước, tấc, tọa lạc tại đâu, đông tây tứ chi phải thưa cho rõ ràng. Mỗi làng phải làm 3 quyển sổ, cứ 5 năm làm một lần để vào bộ đóng dấu kiểm, rồi một bản lưu lại bộ, để phòng khi xét đến, còn hai bản giao về tỉnh, tỉnh để một bản lưu chiếu, còn một bản giao trả dân xã lưu thủ.
Thuế các sản vật: Năm Gia Long thứ hai (1803), định lệ các quế hộ ở Nghệ An, đồng niên phải nộp các hạng quế 120 cân. Ở Thanh Hóa phải nộp 70 cân và đều được miễn trừ thuế thân cả. Những người tìm được cây quế, phải trình quan để cấp cho văn phòng mới được đẵn. Đẵn xong rồi một nửa nộp quan, một nửa cho người người tìm được.
Năm Gia Long thứ tư (1805), định lệ những người đi lấy yến sào ở các đảo về hạt Quảng Nam, mỗi người đồng niên phải nộp thuế yến 8 lạng và được tha việc binh lính.
Còn những thuế hương, thuế sâm, thuế chiếu, thuế gỗ, đều có lệ riêng, định cho nộp bằng tiền hay là bằng sản vật.
Vua Thế Tổ lại định lệ đánh thuế những thuyền các nước vào buôn bán, cứ do thuyền lớn nhỏ mà định số thuế phải nộp.
Những mỏ đồng, mỏ thiếc, mỏ kẽm, cũng cho người Trung Hoa khai thác để đánh thuế.
Đúc tiền: Năm Gia Long thứ hai (1803), mở sở đúc tiền ở Bắc thành, để đúc tiền đồng và tiền kẽm; lại đúc ra nén vàng, nén bạc, lượng vàng, lượng bạc, để cho tiện sự giao thông buôn bán trong nước.
Thước đo: Vua Thế Tổ chế tạo ra kiểu thước đồng đo ruộng một mặt khắc 7 chữ “Gia Long cửu niên thu bát nguyệt”, một mặt khắc 10 chữ “ban hành đạc điền xích, công bộ đường kính tạo”. Chuẩn định lại các thước vuông đo ruộng khi trước, chế tạo ra thước đồng, một mặt khắc 7 chữ Gia Long cửu niên thu bát nguyệt, một mặt khắc 12 chữ “ban hành đạc điền cựu kinh xích, công bộ đường khâm tạo”.
b.Công vụ: Vua Thế Tổ lại sửa sang những đường sá, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của dân gian được tiện lợi.
Đường quan lộ: Đường sá trong nước là sự khẩn yếu cho việc chính trị, vậy nên vua Thế Tổ mới định lệ sai quan ở các doanh, các trấn phải sửa sang đường quan lộ, bắt dân sở tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ 15.000 trượng đường thì phát cho dân 10.000 phương gạo.
Lại từ cửa Nam Quan (thuộc Lạng Sơn) vào đến Bình Thuận, cứ độ 4.000 trượng phải làm một cái trạm ở cạnh đường quan lộ, để cho quan khách đi lại nghỉ ngơi. Cả thảy 98 trạm.
Còn từ Bình Thuận trở vào phía Nam đến Hà Tiên thì đi đường thủy.
Sông ngòi và đê điều: Những sông ngòi và đê điều, đều là sự khẩn yếu cho việc canh nông, bởi vậy vua Thế Tổ truyền cho quan ở các trấn phải xoi đào sông ngòi và các cửa bể, và nhất là ở Bắc Thành phải giữ gìn đê điều cho cẩn thận; chỗ nào không có thì đắp thêm, chỗ nào hư hỏng thì phải sửa lại. Ở các trấn lại đặt ra kho chứa thóc gạo, để phòng khi mất mùa đói kém thì lấy mà phát cho dân.
Vì là một cuốn sử lược, nên không cho chúng ta biết thêm một số chi tiết cần thiết khác về các vấn đề thuế, dân số, biên cương. Có lẽ, trong bộ Việt sử tân biên của Phạm Văn Sơn, đầy đủ hơn, nhưng hoàn cảnh của tôi không thể có được lúc viết bài này. Về quốc phòng cũng thế, bộ Quân sử Việt Nam, từ thời đại phong kiến đến 1968 do TTM/QLVNCH soạn, sẽ giúp chúng ta đối chiếu một số điểm về võ bị mà ông Nguyễn Trường Tộ có nêu như đã bàn ở phần trên.
Một điểm khác, cần thảo luận thêm là, các thứ xa xỉ phẩm cách đây 131 (1998-1867=131 năm) sẽ không có nhiều như ngày nay. Lúc đó không có thuốc ba số 5, thuốc Dunn Hill, rượu Henessy Cognac, dầu thơm Lancôme Pháp, áo bằng da, bằng lông cừu... Về thuế du hí như xem hát mà Nguyễn Trường Tộ có vẻ cay cú lúc viết: "Trong dân gian có người bỏ ra hàng chục hàng trăm quan tiền để xem hát, nhất là dân thành thị. Vì vậy, những phường vô lại du đảng không chịu chăm lo làm ăn chuyên dựa vào nghề này để kiếm tiền, ế ẩm thì sinh trộm cướp vì không có nghề nào nuôi sống" (TBC, Sđd, tr. 246).
Nhận xét như thế, tôi nghĩ không đúng, vì cầm, kỳ, thi, họa (ca hát, xướng họa, thi phú) cũng là những môn giải trí lành mạnh. Hát bội, hát chèo, hò, vè ngày xưa không những là môn giải trí lành mạnh cho tinh thần mà còn là những mảng văn hóa cần thiết của xã hội.
Việc tế thần, cúng thần... cũng thế, nghĩa là đừng thái quá để sa vào vòng cuồng tín, mê tín dị đoan. Nhưng đừng quên rằng tín ngưỡng dân gian cũng đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề làm cho con người tránh bớt phạm pháp. Thí dụ: Một bà mẹ vùng quê cảnh cáo con rằng: "Mầy ở ác, coi chừng thành hoàng vặn cổ mầy". Phải chăng câu nói ấy, có một tác dụng tâm lý quan trọng trong cách xử thế của người con?
2.4.Điều bốn:Xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng.
Nguyễn Trường Tộ chỉ trích một cách đúng đắn khi cho rằng, xưa nay chúng ta chú trọng đến loại tầm chương trích cú, học những chuyện xưa của Trung Hoa, không ích gì cho đời nay. Ông đề nghị nên có bốn khoa học thiết thực như:
a.Khoa nông chính: Nghiên cứu các loại đất, khí hậu, giống, phương pháp canh tác để thu hoạch nhiều hoa lợi.
b.Khoa thiên văn và khoa địa lý: Gấp rút duyệt lại khoa thiên văn địa lý từ trước đến nay, chọn những gì hợp với thiên thời địa thế nước ta. Tham khảo các khoa thiên văn địa lý Tây phương để rút tỉa những điều hay của họ.
c.Khoa công kỹ nghệ: Tìm trong sách Nho cũng như sách Tây thu thập những gì cần thiết hằng ngày như nguồn lợi khoáng sản...
d.Khoa luật học: Bất cứ dân hay quan cũng đều học luật nước nhà để dân thì biết luật mà giữ, quan thì biết luật mà theo.
c.Dùng quốc âm: Lấy chữ Hán đọc ra quốc âm thì khi đọc lên ai cũng hiểu có phải vừa dễ dàng vừa bớt được bao nhiêu phiền phức không?
Nguyễn Trường Tộ rất thẳng thắn để nói một cách cương trực rằng:
"Còn văn sách thì cứ nói mãi những chuyện Hán tự tạp bá, Đường trị vi thuần. Tạp bá, vi thuần của người ta mặc kệ người ta. Mình hãy nói chuyện trị nước của mình ngày nay ra sao thôi. Nước chưa giàu, sao không đặt kế hoạch để giàu? Binh chưa mạnh sao không chăm lo võ bị cho mạnh? Dân chưa khôn sao không đem đạo lý ra giáo dục? Nhân dân đói khổ sao không lập kế mưu sinh để cứu?..." (TBC, Sđd, tr. 254).
Đó là những lời phê bình thẳng thừng không vị nể, để mang cái học thực tế vào áp dụng cho tình thế hôm nay. Đây là những chỉ trích ích lợi, cần thiết để xây dựng một nền học thuật mới mẻ cho nước nhà. Có thể nói, những đề nghị này của Nguyễn Trường Tộ rất đáng được ca tụng.
Tuy nhiên, tôi muốn nêu một vài thắc mắc để cùng thảo luận với độc giả như sau:
Nguyễn Trường Tộ hô hào nên học thực dụng, nhưng chúng ta không thấy tác giả đã thực hiện được điều thực dụng nào trong suốt cuộc đời của ông như, dịch vài cuốn sách khoa học, kỹ thuật phương Tây để dân ta tìm hiểu, hoặc tổ chức một lớp học hay một khóa hội thảo về kỹ thuật để cho tuổi trẻ Đại Nam được mở mang kiến thức khoa học tân tiến. Trong cuộc đời Nguyễn Trường Tộ, chúng ta thấy ông thực hiện được một số việc như sau:
2.4.1. Viết được 58 bản điều trần, mà một số bài quan trọng chúng ta đã và đang tìm hiểu. Qua các bản điều trần này, như sự phân tích trên cho thấy, hầu hết đều lạc dẫn, không tưởng. Ngay có nhiều đề nghị nếu áp dụng, sẽ tạo ra tai họa không thể lường được như đã phân tích trong di thảo số 1: Thiên hạ đại thế luận; di thảo số 5: Lục lợi từ; di thảo số 27: Tế cấp bát điều. Ngay trong di thảo số 27: Tế cấp bát điều này, chúng ta cũng thấy Nguyễn Trường Tộ đưa ra một đề nghị khác hết sức không tưởng và tai hại. Đó là đào một con kênh từ Hải Dương, gần Hải Phòng, đến kinh đô Huế, dài khoảng 800-900 km.
Với khí cụ tối tân ngày nay, chúng ta quả quyết rằng không thể làm được huống hồ là 130 năm trước đây, dụng cụ chỉ là tay chân và mấy cái cuốc cán bằng tre.
Với kỹ thuật của cuối thế kỷ thứ XX và dường như có sự tài trợ hoặc cho vay tiền của Ngân hàng Thế Giới (World Bank), để làm một đoạn đường Quốc lộ 1 từ Vinh vào Đông Hà (Quảng Trị) khoảng 300 km. Dự án đã có nhiều năm qua mà vẫn chưa thực hiện được. Đó là con đường đã có sẵn bằng đất và đá, chỉ làm cho rộng và hiện đại thêm mà đã khó lòng. Dân số Việt Nam ngày nay gần 80 triệu, có nguyên liệu để xuất cảng như lúa gạo, hải sản... và nền kinh tế thị trường mà chưa làm được. Huống hồ 130 năm về trước, dân số gần 20 triệu (hơi nhiều, BK), nền kinh tế nông nghiệp. Đào kênh lại phí tổn gấp cả trăm lần so với làm đường bộ. Thật là một đề nghị hết sức phi lý. Đó là chưa nói đến tình trạng loạn chày vôi, chỉ mới đào hào để làm lăng tẩm cho nhà vua mà dân chúng kinh thành đã nổi loạn, không biết Nguyễn Trường Tộ có nghe hai câu vè:
Vạn niên là vạn niên nào
Thành xây xương lính hào đào máu dân
Nếu đào kênh như đề nghị của Nguyễn Trường Tộ, chắc chắn dân chúng cả nước đều nổi lên chống triều đình. Cảnh thù trong: dân chúng nổi loạn, giặc ngoài: Pháp thừa cơ hội tấn công và chiếm toàn lãnh thổ một cách nhanh chóng hơn.
2.4.2. Xây nhà thờ: Nguyễn Trường Tộ xây được hai nhà thờ. Một là xây Nhà Chung Xã Đoài. Hai, xây tu viện Phao Lô ở Sài Gòn. Lúc này có phần khác, nhưng thời buổi Pháp chiếm Đại Nam, có thể nói đây là hai nơi trú ẩn cho những gián điệp để xâm lăng Đại Nam. Một trong những người trú ngụ tại Nhà Chung Xã Đoài do Nguyễn Trường Tộ xây cất là Giám mục Ngô Gia Hậu tức là Gauthier (người Pháp), thầy của Nguyễn Trường Tộ, là người luôn luôn sát cánh với Nguyễn Trường Tộ trong tất cả các việc làm, ngay cả có thể (?) sát cánh trong việc viết 58 di thảo này. Chúng ta có thể khẳng định rằng, Giám mục Gauthier là một tên gián điệp qua phần thảo luận và dẫn chứng sau đây.
2.4.3. Trường kỹ thuật:
Theo tờ trình của Giám mục Gauthier đề tháng 3/1868 nạp cho triều đình vua Tự Đức, chúng ta thấy có nhiều máy dụng cụ, sách, tự điển... cũng như phí tổn các thứ ấy mua từ Pháp về do phái bộ Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ thực hiện để mở trường kỹ thuật.
Tờ tấu của Cơ Mật Viện ngày 4/3/1868, gồm có 7 đại thần đề nghị nhà vua nên ban thưởng cho cả phái bộ và 4 thầy dạy học mà Gauthier và Nguyễn Trường Tộ được vua Tự Đức nhờ đi mướn từ Pháp về. Trong 4 thầy có 3 vị là linh mục người Pháp. Bảy đại thần nói trên gồm có: Nguyễn Tri Phương, Đoàn Thọ, Vũ Trọng Bình, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Phong, Phan Huy Vịnh và Phạm Phú Thứ. Vua Tự Đức đồng ý lời đề nghị của các đại thần, sai ban thưởng rất hậu. Điều đó chứng tỏ triều đình nhà Nguyễn rất muốn canh tân. Nhưng công việc không thành mà chúng ta sẽ thấy lý do ở đoạn sau.
Tóm lược các máy móc và dụng cụ mua từ Pháp và lộc vua ban thưởng:
a.Máy và dụng cụ: Sách nói về quặng sắt, về địa chất, về mỏ than, về bách nghệ cơ xảo, về quặng đồng, thước tam giác, bản đồ địa lý, địa chất, hai bộ thủy thư, một bộ kỹ hạn nghi (dùng đo vĩ độ...). Sách thiên văn, sách về chính trị nước Pháp, nhiều loại thước và tự điển tiếng Pháp. Cộng chung tốn hết 1.266 quan.
Tiền mua một số dụng cụ khác chưa đem về được. Phí tổn: 1.055 quan.
Tiền ăn ở của hai phái viên của Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier cộng với tiền chuyên chở khuân vác và đóng thùng: 2.799,148 quan.
Tổng cộng cả ba khoản trên là: 5.120,148 quan.
(Lược trích trong TBC, Sđd, tr. 467-468).
b. Những vật dụng vua ban thưởng cho phái bộ đi mua máy và bốn giáo chức.
Kê khai:
– Xin xét cấp cho Ngô Gia Hậu các vật hạng như sau:
Một tấm Ngũ phúc kim tiền nặng 5 đồng cân (có tua).
Mười tấm Ngân tiền (hạng Song Long: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm; hạng Triệu dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm; hạng Ngũ phúc, Tam thọ mỗi thứ một tấm), cộng lại nặng ba lượng, năm đồng cân, năm phân.
Một cuộn tố đoạn bằng năm loại tơ màu đen để may áo dài chật tay (có một đoạn lụa bóng màu lục để lót trong).
Một xấp huyền lương sa Bửu lam nam hoa.
Một xấp sa có vân Nam tố Tuyết bạch.
Một xấp lụa Tuyết bạch.
– Xin xét cấp cho Nguyễn Trường Tộ các vật hạng như sau:
Một tấm Tứ mỹ kim tiền nặng bốn đồng cân (có tua).
Năm tấm ngân tiền (hạng sứ dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm; hạng Ngũ phúc, hạng Tam thọ mỗi thứ một tấm), cộng lại nặng một lượng năm đồng cân năm phân.
Một cuộn tơ lông màu lam để may áo dài chật tay (có một đoạn lụa màu xanh để lót trong).
Một xấp lương sa Bửu lam nam tố.
Một xấp trừu Tuyết bạch nam hoa.
Một xấp lụa Tuyết bạch.
– Xin xét cấp cho ba tên: Đạo trưởng tên Điều, đạo đồ tên Hoằng và tên Vị như sau:
Nhị thắng kim tiền mỗi tên một tấm, mỗi tấm nặng hai đồng cân (có tua).
Ngân tiền, mỗi tên bốn tấm (hạng sứ dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm, hạng
Ngũ phúc, hạng Tam thọ mỗi thứ một tấm) mỗi phần cộng lại nặng một lượng ba đồng cân năm phân.
Nam tố lương sa màu đen, mỗi tên một xấp.
Tơ lông màu lam (châu phê: Hoặc màu đen huyền cũng được) mỗi tên một đoạn (thành một cái áo tay chật, có một đoạn lụa xanh lót trong).
Lụa Bạch tuyết mỗi tên một xấp.
Một xấp vải tây dày mịn Bạch tuyết hạng nhì (chia làm ba mỗi tên một đoạn).
– Xin xét cấp cho ba tên linh mục giáo sĩ:
Tam thọ kim tiền mỗi tên một tấm (châu phê: Cấp cho tên Ca Xanh ba tấm ngân tiền này. Châu phê: Cấp cho ba người ngân tiền hạng sứ dân: đại, trung, tiểu mỗi thứ một tấm) mỗi tấm nặng ba đồng cân (có tua).
– Xin xét cấp cho bọn tùy tùng của Ngô Gia Hậu bốn tên, mỗi tên một tấm Long văn ngân tiền hạng nhỏ (mỗi tấm nặng ba đồng cân).
(Tờ tấu của Cơ Mật Viện Triều Tự Đức ngày 4/3/1868,
TBC, Sđd, tr. 459-460).
Qua sự khao thưởng như trên mà tôi trích dẫn dài dòng để thấy, triều đình vua Tự Đức cũng biết chiêu hiền đãi sĩ. Ngay cả việc vua Tự Đức đồng ý đề nghị của Giám mục Gauthier và Giám mục Sohier xây dựng trường sở trên hai mẫu đất nằm giữa nhà thờ Kim Long và Tòa Giám mục Huế, theo thư của Giám mục Gauthier viết ngày 31/3/1868 (TBC, Sđd, tr. 50).
Nhưng việc mở trường chưa bao giờ được thực hiện. Lý do, theo Linh mục Trương Bá Cần là bị Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình, hai vị quan có thế lực trong triều ngăn cản. Cũng theo Linh mục Trương Bá Cần (Sđd, tr. 52) ngày 31/3/1868, Giám mục Gauthier gửi thư cho Bộ Truyền giáo có đoạn như sau:
"Công việc sẽ tiến triển nhanh hơn nếu không có việc cử phái bộ đi Pháp và những sự chậm chạp của xứ này... Trong các quan thượng thư có hai vị cựu trào tìm cách cản trở quyết tâm của nhà vua".
Linh Mục Trương Bá Cần nêu lý do trên để kết luận vì thế mà trường không mở được. Tôi nghĩ lý do này không đúng.
Thứ nhất, trong tờ tấu của Cơ Mật Viện, ngày 4/3/1868 mà chúng ta đã thấy ở trên, có Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình đề nghị ban thưởng cho phái bộ và 4 giáo chức. Điều đó cho thấy, nếu hai vị này có ý cản trở thì họ đã không đề nghị vua Tự Đức ban thưởng như vậy.
Thứ hai, thư của Giám mục Gauthier gởi cho Bộ Truyền giáo, đề ngày 31/3/1868, nghĩa là 27 ngày sau khi bảy vị đại thần đề nghị ban thưởng cho phái bộ Gauthier... Thư cho biết, vua Tự Đức đồng ý dùng hai mẫu đất để xây trường sở. Sự đồng ý của vua Tự Đức không thể không có sự tham khảo với các đại thần trong đó có Nguyễn Tri Phương và Vũ Trọng Bình. Hơn nữa, Trần Tiễn Thành mới là nhân vật chính trong triều (chức phụ chính) sau vua Tự Đức chứ không phải Nguyễn Tri Phương hoặc Vũ Trọng Bình.
Thứ ba, Linh mục Trương Bá Cần trích dẫn chỉ có một đoạn "thư gởi cho Bộ Truyền giáo" như trên, không nói lên được điều gì cho thấy hai vị thượng thư đó cản trở. Việc trích dẫn như vậy không rõ ràng, không chứng minh được luận điểm mà Linh mục Trương Bá Cần muốn nói. Theo tôi, những lý do chính để việc mở trường không thành vì triều đình vua Tự Đức quá tin tưởng Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ, trái lại hai ông này thì lừa dối triều đình có hậu ý: Kẻ thì ngu muội chạy theo ngoại bang, người thì khoác áo chùng thâm để làm gián điệp. Sau đây là một số bằng chứng.
a. Thầy giáo không có khả năng:
Trong việc mở trường (huấn nghệ, kỹ nghệ) yếu tố quan trọng hàng đầu sau trường sở, dụng cụ... là phải có quyết tâm, thứ hai giáo chức phải có bằng cấp hoặc kiến thức chuyên môn về ngành mà mình được mời dạy. Theo tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 23/2/1868 gởi cho vua Tự Đức thì các vị giáo chức có bằng cấp chuyên môn để dạy huấn nghệ, kỹ nghệ. Nhưng theo Hội truyền giáo Paris thì mấy vị này không có các bằng cấp hoặc khả năng mà Giám mục Gauthier mô tả. Nguyên văn:
"Theo một tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức 21 (23/02/1868):
– Linh mục Thông (tức Montrouzies) biết phép toán, bản đồ các nước thiên hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim; biết nói có thứ đất thứ đá ấy thì có những giống chi.
Nhưng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris, thì Linh mục Montrouzies trước khi nhập Hội Truyền giáo Paris, ngày 01/5/1867 đã đậu cử nhân văn chương.
– Linh mục Đồng (tức Renauld) biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt trời mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao cầu viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng, biết làm thu lôi trụ.
Nhưng cũng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris thì sau khi học xong chủng viện, Linh mục Renauld gia nhập Hội Truyền giáo Paris 14/10/1866 và theo học một khóa đặc biệt về kiến trúc và họa đồ một năm trước lúc lên đường sang Việt Nam.
– Giáo sĩ (tức bác sĩ Hernaiz) không phải linh mục hay tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo nên gọi giáo sĩ như Nguyễn Trường Tô cũng được gọi là giáo sĩ, thì không dạy học trò được vì nặng tai, nhưng cũng giúp Linh mục Thông mà phân tích các tính ngũ kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc. Nhưng tới Việt Nam chưa được mấy ngày giáo sĩ này do bệnh cũ tái phát đã xin về Pháp trở lại.
– Còn Ca Xanh (nguyên tên là Ca Sa Nhi) là một người thợ máy, trước đã giúp việc tàu Thuận Thiệp, có lẽ do giám mục gặp ở Sài Gòn đem về giới thiệu với triều đình, nhưng Ca Xanh đòi lương quá cao (320 đồng/tháng, tính ra tiền là 1.760) và đòi hỏi nhiều điều kiện, nên không dùng" (TBC, Sđd, tr. 49-50). Các đối chiếu nên trên chứng tỏ vua quan triều Tự Đức bị thầy trò Nguyễn Trường Tộ dối trá lừa bịp có hậu ý.
b. Giám mục tình báo: Giám mục Sohier, nhất là Giám mục Gauthier, thầy đỡ đầu và sát cánh với Nguyễn Trường Tộ suốt 20 năm là một tên tình báo phục vụ cho quyền lợi của Pháp chứ đâu có tấm lòng muốn giúp triều đình vua Tự Đức mở trường để canh tân xứ sở, mà bảo giám mục không lừa dối triều đình.
Thật vậy, nếu kể theo thứ tự thời gian, chúng ta thấy rằng, Giám mục Gauthier cùng Nguyễn Trường Tộ đến chào mừng quân Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng năm 1858. Và năm 1861, theo lời yêu cầu của phó Đô đốc Charner, thầy trò Gauthier về Sài Gòn, để mở rộng vùng chiếm đóng. Quý độc giả sẽ thấy thêm sử liệu qua bản điều trần số 17: Dùng giám mục, linh mục vào việc canh tân.
Dưới đây là sáu sử liệu cho thấy Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ, là một tên tình báo:
Sau khi hiệp ước 1862 ký giữa Đại Nam, Pháp và Tây Ban Nha, triều đình vua Tự Đức kiếm cách chuộc lại 3 tỉnh đã mất. Trong chiều hướng này, một người Ki Tô cuồng nhiệt là Trung tá hải quân Aubaret vận động, được bộ ngoại giao Pháp và vua Napoléon III đồng ý. Vì thế, một hiệp ước mới (thế hiệp ước cũ 1862) được bộ ngoại giao và bộ hải quân soạn thảo theo quan điểm của vua Napoléon III, và được ký tại Huế ngày 15/01/1864.
Theo hiệp ước này, 3 tỉnh bị chiếm trong năm 1862 được trả lại cho Đại Nam, ngoại trừ thành phố Sài Gòn, Mỹ Tho, Vũng Tàu và Côn Đảo. Để đổi lại việc trả 3 tỉnh này, Pháp có quyền bảo hộ 6 tỉnh Nam Bộ, 3 hải cảng Đà Nẵng, Ba Lạt và Quảng Nam...
Theo Hiệp ước 1864, Aubaret chủ trương chiếm Nam Kỳ bằng con đường tôn giáo và thương mại, chứ không phải Aubaret có lòng tốt gì đối với dân Đại Nam đâu (CHT. Sđd, tr. 174-175). Trong triều đình Pháp chia làm hai phe, phe ủng hộ và phe chống. Phe chống khuyên vua đừng phê chuẩn hiệp ước.
b1. Gauthier theo phe Aubaret.
Về phía các nhà truyền giáo cũng chia làm 2 phe, phe chống, phe bênh. Chúng ta cũng nên lưu ý rằng, chống hoặc bênh cũng cùng một mục đích là đồng hóa dân Đại Nam nhưng theo cách này hay theo đường khác mà thôi. Trong phe ủng hộ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier hai người có liên hệ đến việc mở trường nói trên. Thư của Giám mục Lefèbre viết cho Linh mục Pernot, cho chúng ta thấy điều đó:
"Hiệp ước Aubaret bị dìm, đó không phải là điều rủi ro. Chỉ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier là tán đồng hiệp ước, nhưng đứng trên quan điểm chính trị thực sự và quyền lợi của hội truyền giáo chúng ta, việc trả lại 3 tỉnh để lấy tiền thật là một sự ngu ngốc kỳ lạ. Vấn đề bây giờ là phải lấy luôn 3 tỉnh phía Nam: Đó là ý đồ của chính phủ và của toàn thể Bộ Tham mưu chúng ta, nhưng cần phải có một nguyên cớ nghe được, vì cần phải có tôn trọng công lý và tôi không biết từ khi hiệp ước được ký kết với Bonard, người An Nam có cố tình phá vỡ hiệp ước hay không; vì không có gì rõ ràng là triều đình Huế không tôn trọng, dù có nhiều vi phạm ở địa phương mà họ có thể quy trách nhiệm cho dân chúng và quan lại, là những người, dĩ nhiên, không mấy sẵn sàng chấp nhận bất cứ hiệp ước nào với nước ngoài, nhất là ở Bắc Kỳ. Chắc Cha đã gặp Giám mục Sohier, người theo phe Aubaret, nhưng bất đồng ý kiến với tôi. Ông Aubaret đã trở lại Xiêm, hết sức xấu hổ về việc thất bại ngoại giao của ông, sự thất bại tôi đã cho ông thấy trước, khi ông ghé Sài Gòn".
Nguyên văn tiếng Pháp:
"Le traité Aubaret est enfoncé et ce n'est pas un malheur. Il n'y avait que Mgr. Sohier et Mgr. Gauthier qui en paraissaient partisans, mais au vrai point de vue politique et dans les intérêts de notre Mission, la reddition des trois provinces pour de l'argent était une absurdité révoltante... Il s'agit maintenant de prendre les trois autres provinces méridionales: c'est l'intention du gouvernement et de tout notre État-Major, mais il faudrait pour cela une raison plausible, car il faut bien observer la justice et ne sais si, depuis le traité conclu avec M. Bonard, les Annamites ont donné lieu obstensiblement à une rupture du traité; car il n'est pas évident que la Cour de Huế n'en ait pas observé les conditions, malgré beaucoup d'infractions locales, qu'elle peut rejecter sur les populations et les mandarins, naturellement peu disposés à accepter aucun traité avec une puissance étrangère, surtout au Tonkin. Vous avez du voir Mgr. Sohier, qui s'est fait aussi le partisan de M. Aubaret, mais dans un autre ordre d'idées que moi. M. Aubaret est retourné à Siam, tout confus de son échec diplomatique, que je lui avais fait entrevois lors de son passage à Saigòn".
(Lettre de Mgr. Lefèbre au Père Pernot, datée du 27/9/1864, citée par Taboulet, Bulletin de la Société des Études Indochinoise 1943, tom XVIII, N" 4, 4ème trimestre. Mgr. Sohier et Mgr. Gauthier sont respectivement évêque de Huế et évêque du Tonkin méridionnal (CHT, Sđd, p. 181).
Giám Mục Jean Denis Gauthier
b2. Gauthier được mời họp mật.
Năm 1872, tàu Bouragne chở Trung tá Hải quân Senez ra Bắc Kỳ để dò xét tin tức cho một cuộc chiếm cứ vùng này. Trong thư báo cáo của Hạm trưởng Senez gởi cho Đô đốc Dupré chúng ta thấy có mời Giám mục Gauthier họp mật với vị Sĩ quan Senez này:
"... Vừa lên bờ, tôi gởi ngay thư cấp tốc cho Giám mục Gauthier cách đó lối mười cây số và hẹn gặp ở trong làng. Chúng tôi sống suốt ngày giữa đám dân Thiên Chúa giáo, họ rất niềm nở với chúng tôi... Lúc 4 giờ, chúng tôi thấy một nhà truyền giáo, Cha Frichot đến nói chuyện với chúng tôi vì giám mục đi vắng. Cha xác nhận lại những gì mà chúng tôi biết lúc sáng do sự tiết lộ của những phái viên: Loạn lạc ngày càng bành trướng, từ các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang lan đến Sơn Tây, Bắc Ninh, Quảng Yên, Hải Dương và những người khởi nghĩa làm loạn, trộm cướp, đã làm những điều cực kỳ táo bạo.
Cha xứ vùng Phát Diệm xác nhận các tin tức đó ngoại trừ vấn đề chính thống và tôn giáo của người dòm ngó ngôi vua, về hai điểm này có những ý kiến mâu thuẫn nhau. Nhưng sự kiện chắc chắn là cầm đầu cuộc nổi loạn này có một người đang dòm ngó ngôi vua Bắc Kỳ, dù thuộc dòng chính thống hay không".
Nguyên văn tiếng Pháp:
"... Aussitôt débarqué, j'envoyai un exprès à Mgr. Gauthier qui habite à 10 ou 12 km et donnai rendez-vous au village. Nous passâmes la journée au milieu de cette population chrétienne qui fut très gracieuse envers nous... Vers 4 heures nous vimes arriver un missionnaire, le père Fricot qui en l'absence de Monseigneur venait causer avec nous. Il confirme ce que nous avions déjà appris le matin par l'indiscrétion des envoyés du Département: c'est que l'insurrection s'étendait de plus en plus et que des provinces de Lạng Sơn, Cao Bang, Thai Nguyen, Tuyen Quang, elle avait gagné celles de Sơn Tay, Bac Ninh, Quang Yen, Hai Dương et que les insurgés, rebelles ou pirates commettaient les plus grande atrocitées.
Le curé de Phat Diem confirma ces renseignements à l'exception cependant de la légitimité du prétendant et de sa religion, sur lesquelles circulent des versions contradictoires. Mais le fait certain est qu'à la tête de cette insurrection existe un prétendant légitime ou illégitime à la couronne du Tonkin..." (Rapport sur le voyage du Bourayne de Saigon au Nord du Tonquin, par le Commandant Senez, 16/2/1872, Archives du ministère de la Marine, BB4. 964 CHT, Sđd, pp. 242-243).
b3. Giám mục Gauthier viết:"Triều đình Huế chỉ nghe tiếng nói của đại bác mà thôi".
Trong thư đề ngày 12/02/1873 và ngày 19/02/1873 gởi cho Đô đốc Dupré, Giám mục Gauthier viết:
"Cuộc chiến này làm hao mòn tài chánh và giết hại những tinh hoa của dân tộc (dĩ nhiên là dân tộc Pháp, BK). Giám mục Gauthier viết như vậy và còn than phiền về những việc sách nhiễu con chiên. Theo tôi, (Giám mục Gauthier) khi nói đến triều đình Huế và quan lại. Các người đó chỉ có nghe theo tiếng nói của đại bác, còn thì điếc hẳn không nghe gì khác". (Tức là giám mục khuyên không nên nghe triều đình Huế về một giải pháp ở Bắc Kỳ mà phải chiếm nhanh, BK).
Nguyên văn tiếng Pháp:
"... Cette guerre ruine les finances et décime l'élite de la population, écrivait Mgr. Gauthier qui se plaignait en outre des vexations dont ses chrétiens étaient victimes. Il compte pour mois, poursuivait l'évêque, en parlant de la cour de Huế et de ses madarins – que ces gens n'entendront jamais que la voix du canon et resteront sourds à tout le reste" (Mgr. Gauthier à Dupré, 12/02/1873, et 19/02/1873, CHT, Sđd, p. 250).
b4. Gauthier muốn có một chính phủ Ki Tô tại Bắc Kỳ.
"Bằng những sự phóng đại đó, các kẻ truyền đạo cố lôi cuốn các viên chỉ huy quân sự Pháp vào các cuộc chinh chiến và họ tin rằng một khi sự xung đột tái diễn thì nhất định Pháp sẽ mắc kẹt trong guồng máy chiến tranh.
Tôi tin rằng, Giám mục Gauthier và Giám mục Puginier, nhất là ông thứ nhì, không chịu nổi ý kiến một giải pháp hòa bình cho vấn đề: Giải pháp này sẽ phá tan hy vọng của họ mong muốn thấy một chính phủ riêng biệt, chính phủ này có lẽ sẽ là một chính phủ Công giáo. Các tín đồ Công giáo lại càng phóng đại hơn nữa các ý tưởng đó và xúi giục các linh mục, các người chăn dẫn họ để đưa đến một sự đổ vỡ mới giữa hai chính phủ... Suốt ngày, chúng tôi nhận tới tấp các báo cáo và các lời yêu cầu đem quân chinh phạt các tỉnh đó".
Nguyên văn tiếng Pháp:
"Par ces exagérations, les missionnaires s'efforcaient d'entrainer les chefs militaires francais dans des expéditions, convaincus qu'une fois que les hostilités recommencaient, les Francais seraient fatalement pris dans l'engrenage de la guerre.
"Mrg. Gauthier et Mgr Puginier, celui-ci surtout, je le crois, ne peureusement supporter l'idée d'une solution pacifique de la question: cette solution est la ruine des espérances qu'ils nourrissaient de voir créer au Tonkin un gouvernement particulier, lequel serait un gouvernement catholique. Les chrétiens exagèrent encore ces idées et poussent leurs prêtres et leurs pasteurs pour amener une nouvelle rupture entre les deux gouvernements... Toute la journée, nous recevons rapports sur rapports et demandes d'expédition dans ces provinces" (Philastre à Dupré, dépêche du 15/01/1874 précitée. CHT, Sđd, p. 306).
b5. Tại sao giám mục Gauthier muốn có một chính phủ Ki Tô tại Bắc Kỳ?
Trả lời: Sẽ dễ dàng biến người Bắc Kỳ trở thành Ki Tô giáo hoàn toàn. Có ích gì lúc người Bắc Kỳ trở thành Ki Tô? Giám mục Puginier trả lời thế cho chúng ta:
"Tôi xác nhận rằng, khi nào Bắc Kỳ trở thành Ki Tô, thì nó cũng trở thành một nước Pháp nhỏ, hoàn toàn giống như các đảo Philippines đã thành một nước Tây Ban Nha nhỏ... Giám mục Puginier viết tiếp:
Nếu chính phủ hiểu rõ quyền lợi thực sự của nước Pháp mà ủng hộ chúng tôi một cách thật sự dù che đậy đôi chút để tránh đụng chạm dư luận, tôi quả quyết rằng, trong sứ mệnh của tôi, mỗi năm chúng ta có thể thu về cho nước Pháp khoảng 20.000 người bạn bằng cách cải đạo, chắc chắn tỉ lệ này sẽ gia tăng hằng năm, và có đủ lý do mạnh để hy vọng rằng, sau 30 năm, gần hết xứ Bắc Kỳ đều trở thành người Ki Tô, nghĩa là trở thành người Pháp hết".
Nguyên văn tiếng Pháp:
"J'affirme que du moment où le Tonkin deviendra chrétien, il deviendra aussi la petite France de l'Extrême-Orient, absolument comme les iles Philippines sont une petite Espagne...
... Si le gouvernement comprenant les intérêts de la France, à leur vrai point de vue, nous favorisait d'une facon réelle quoique un peu voilée pour éviter de choquer l'opinion, j'affirme que dans ma mission nous pourrions, chaque année, gagner à la France environ vingt mille amis en les faisant chrétiens sans la moindre pression. Cette proportion irait certainement en augmentant tous les ans, et il y a fortes raisons d'espérer que d'ici à trente ans, à peu près tout le Tonkin serait chrétien, c'est-à-dire Francais" (Lettre de Mgr. Puginier au ministre de la Marine et des Colonies, 6-5-1887. Archives du ministère de la F.O.M., AOO (30) ou N.F.541, CHT, Sđd, pp. 421-422).
Tất cả các giám mục, linh mục Pháp đều là những tên thực dân cuồng nhiệt. Trong số đó, Giám mục Puginier được xếp hạng nhất, Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ đứng hạng nhì. Là hai kẻ đắc lực và nguy hiểm nhất trong chủ trương biến Bắc Kỳ thành một nước Pháp nhỏ và độc lập khỏi triều đình Huế. Giám mục Puginier đã uổng công đích thân đến Sài Gòn (từ Bắc Kỳ, BK) để bàn trực tiếp với Đô đốc Dupré, nhưng Dupré vẫn cương quyết không can thiệp vào những vấn đề của nội bộ Bắc Kỳ.
Giám mục Puginier
Biến Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ sau khi đã đổi đạo dân Bắc, chủ trương này cũng được Đô đốc Dupré chỉ trích là quá nguy hiểm. Trong thư gởi cho Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa ngày 30/12/1874 cho chúng ta thấy điều đó:
Dupré viết: "Những lần tôi nói chuyện với Giám mục Puginier. Trước khi ông rời Sài Gòn, lòng tôi vẫn không thay đổi: Vì thế, tôi vẫn giữ nguyên các nhận xét mà tôi đã trình bày với ngài, dù vị Giám mục này đã khổ công khuyến cáo rằng, hãy bỏ cái chính nghĩa đã tạo cho dân chúng (An Nam) có cảm tình với nước Pháp và theo con đường mà ông Garnier, một anh hùng bị kết án, đã vạch sẵn, nhưng người ta đã không biết những khó khăn của tình thế, do viên sĩ quan khốn nạn này để lại mà chúng ta phải gánh chịu".
Giám mục Gauthier cũng thuyết phục, nhưng Dupré cũng không thay đổi ý kiến:
"Chắc chắn tôi sẽ không làm vừa lòng hoàn toàn Giám mục Gauthier được, ông ta quá hăng say và trong nhiều trường hợp tôi nhận thấy thật sự quá nguy hiểm nếu nhắm mắt nghe lời của ông giám mục này".
Nguyên văn tiếng Pháp:
Mgr. Puginier avait beau venir en personne à Saigon pour discuter directement avec Dupré, celui-ci restait ferme dans sa position de non-ingérence dans les affaires intérieures du Tonkin.
"Les conversations que j'ai eues avec ce prélat avant son départ de Saigon, écrivait Dupré à son ministre, n'ont pas modifié ma conviction: Je maintiens donc les observations que je me suis permis de vous présenter, quelque pénible qu'il soit de conseiller l'abandon d'une cause qui éveille en France nombreuses sympathies, et l'adoption d'une ligne de conduite que condamneront ceux pour lesquels M. Garnier est un héros, et qui ignorent les difficultés la situation que nous a léguée ce malheureux officier" (Dupré au ministre de la Marine et des Colonies, 30/12/1874, Archives ministère de la F.O.M. A 30 (25) carton 13. CHT, Sđd, p. 366).
Mgr. Gauthier ne pouvait non plus changer les idées de Dupré:
"Il me sera certainement impossible de donner une entière satisfaction à Mgr. Gauthier; son ardeur est extrême, et en maintes circonstances, j'ai pu reconnaitre combien il serait dangereux d'accepter sans réserves les appréciations de ce prélat" (Dupré au ministre de la Marine et des Colonies, 26/7/1876, Archives du ministère de la F.O.M. A 30 (26) carton 14. CHT, Sđd, p. 367).
Qua sáu dẫn chứng nêu trên, chúng ta có thể quả quyết rằng, đưa ra miếng mồi mở trường kỹ thuật là một mưu chước đã được bàn luận kỹ lưỡng giữa Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ để thăm dò và phỉnh gạt triều đình. Do đó, nên nói: Việc mở trường kỹ thuật không bao giờ có chứ không phải vì thế mà thất bại. Giả sử triều đình vua Tự Đức, hoặc ai đó, có điều kiện để mở trường kỹ thuật nhằm canh tân xứ sở cho dân giàu nước mạnh thì chính Gauthier và Nguyễn Trường Tộ là hai người sẽ đập phá trước hết vì nếu Đại Nam được giàu mạnh thì kế hoạch muốn đồng hóa và biến Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ để dễ cai trị của Gauthier bị thất bại sao? Tôi hy vọng Linh mục Trương Bá Cần – Tiến sĩ Sử học và độc giả sẽ đồng ý sự nhận xét của tôi qua các sử liệu chính xác đã trích dẫn?
Và qua đó, chúng ta cũng thấy rõ thêm cái tư tưởng chẳng thà mất nước chứ không để mất ngoại bang của Nguyễn Trường Tộ. Cũng thế, chúng ta mới hiểu rõ tại sao mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình: "Dùng giám mục và linh mục vào việc canh tân", "Những việc Giám mục Gauthier có thể giúp", "Thương lượng với Giám mục Croc"... Vài ý kiến ngắn gọn:
* Tội nghiệp cho triều đình nhà Nguyễn, không có cơ quan tình báo gì cả. Nuôi ong tay áo, nhận giặc làm con.
* Giám mục Gauthier, người mà Nguyễn Trường Tộ đã mang ơn dìu dắt, việc đi đứng nằm ngồi, ăn ở bên cạnh nhau suốt 20 năm. Có thật Nguyễn Trường Tộ không biết kế hoạch hỗ trợ cuộc xâm lăng Đại Nam của thầy mình? Ít nhất là trước lúc Nguyễn Trường Tộ chết.
Kế hoạch mở trường dĩ nhiên là không thể xảy ra, và đó cũng là một điều tốt để thầy trò Nguyễn Trường Tộ ít có cơ hội tới lui triều đình vua Tự Đức với mục đích thu thập tin tức cho quân đội viễn chinh Pháp.
2.5.Điều thứ tám trong 8 điều Nguyễn Trường Tộ đề nghị phải làm gấp là lập viện dục anh và trại tế bần. Ông dẫn vua Thuấn nhờ giúp đỡ hạng người nghèo khổ, người cô độc nên được thiên hạ ca tụng là người đạo đức. Cách trình bày của Nguyễn Trường Tộ rất hợp nhân đạo lúc nuôi dưỡng những trẻ mồ côi. Nhưng cái dụng tâm của Nguyễn Trường Tộ trong đề nghị này là gì? Trả lời:
Nếu triều đình cho rằng, việc này nên làm thì sẽ nhờ các giám mục mời người đến mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ, không bao lâu sẽ thấy kết quả ngay (Tế cấp bát điều, TBC, Sđd, tr. 276).
Kết quả được những gì? Xin mời độc giả xem phần Nhận xét dưới đây:
Nếu đứng ở vị trí lịch sử đất nước Việt Nam ngày nay để xét, thì các hội từ thiện có người phương Tây nhúng tay vào không có nhiều âm mưu (trồng người) như thời Nguyễn Trường Tộ, vì thời đó Việt Nam bị Pháp đô hộ, không có chủ quyền. Người nước ngoài ngay cả thường dân họ cũng được trị ngoại pháp quyền, chính phủ Việt Nam không có quyền xét xử, lúc họ vi phạm luật pháp. Còn các linh mục, giám mục lại có quyền đặc biệt hơn nữa. Nhất là núp dưới chiếc áo chùng thâm và viện dẫn lý do tôn giáo để bắt chẹt triều đình vua Tự Đức, mà chúng ta đã thấy các linh mục, giám mục ngoại quốc đến Việt Nam với các nhiệm vụ tình báo, và muốn biến Việt Nam trở thành một nước Pháp với linh hồn Vatican như đã trình bày ở đoạn trước. Ngay cả Linh mục Việt Nam như Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Trương Vĩnh Ký cũng là những kẻ bồi Tây mà lịch sử đã cho thấy.
Do đó, nếu mỗi tỉnh có một viện dục anh do các giám mục người Tây phương điều khiển (hay cử người điều khiển cũng thế) sẽ tạo nên một mạng lưới gián điệp toàn cõi Việt Nam. Và lúc đó thì kế hoạch đồng hóa của Puginier và của Gauthier thầy của Nguyễn Trường Tộ rất dễ đạt được kết quả, và vấn đề Pháp hóa người Việt cũng sẽ được rút ngắn thời gian. Đó là chưa kể tình trạng các linh mục, giám mục hay bà sơ điều khiển các viện dục anh (viện mồ côi, nhà giữ trẻ) này dựa vào thế lực của Pháp để phản loạn qua một số dẫn chứng dưới đây:
Thí dụ 1: Vụ Xuân Hòa của Linh mục Ân (người Việt Nam) đã dựa vào chức linh mục và dựa thế người Pháp cho phép những kẻ mới theo đạo ở làng Xuân Hòa (Huế) thuê giáo dân các làng bên cạnh tự tiện gặt các thửa ruộng đang tranh chấp.
Vài ngày sau bữa gặt lúa, gần 1.000 dân không đạo, võ trang gậy gộc đến giật lại lúa hiện đang chứa ở đình; bị giáo dân chống cự, sau một trận ẩu đả họ đã chạy trốn, bỏ lại 20 người bị bắt (xin xem luận án của Cao Huy Thuần, bản dịch tiếng Việt Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam. Hương Quê xuất bản, Hoa Kỳ, 1988, tr. 325).
Theo luật pháp của Việt Nam thời bấy giờ, Linh mục Ân sẽ bị đánh bằng roi hoặc bằng gậy vì có lỗi nhưng ông được sự che chở của Pháp. Do đó:
Sự vụ kéo dài ba năm. Cuối cùng được kết thúc bằng sự nhượng bộ triều đình Huế do áp lực của các văn thư hăm dọa của soái phủ Sài Gòn cương quyết đòi. Một linh mục không bao giờ có thể bị đánh bằng gậy, dù như là phương pháp tra hỏi, hoặc như hình phạt chính hay phụ (CHT, Sđd, tr. 330).
Thí dụ 2: Thiên Tân giáo án.
Năm 1869, một số bà sơ người Pháp lập một cô nhi viện cạnh nhà thờ tại Thiên Tân – Trung Hoa, nhưng không có bao nhiêu người chịu đem trẻ mồ côi giao cho cô nhi viện của người nước ngoài. Vì vậy, mấy bà sơ thưởng tiền cho những ai đem trẻ em đến. Hành động này làm cho dân chúng nghi là có việc mua bán trẻ con.
Ngày 21/6/1870, quan địa phương Trung Hoa đem kẻ tình nghi đến cô nhi viện để đối chất cho rõ sự tình. Sự việc chỉ có thế, nhưng viên lãnh sự Pháp tại Thiên Tân là Henri Fontanier cùng với người bí thư là Tây Mông đến gặp quan đại thần Trung Hoa là Sùng Hậu, với thái độ xấc xược bắn súng dọa nạt và hạch sách Sùng Hậu.
Trên đường về, bọn Fontanier lại dùng súng bắn vào đám đông người Hoa và viên tri huyện Thiên Tân là Lưu Kiệt, khiến một người tùy tùng của viên tri huyện chết.
Đám quần chúng uất hận không dằn được nên đánh chết Fontainier, Tây Mông và đồng bọn 20 người, đồng thời đốt nhà thờ và lãnh sự quán của Pháp. Sau đó, Pháp, Anh, Mỹ, Nga, Đức, Bỉ và Tây Ban Nha, tất cả bảy nước liên hiệp với nhau đem quân vây Thiên Tân, dọa gây chiến. Triều đình nhà Thanh phải chịu xin lỗi, bồi thường tiền cho nước Pháp, cách chức và giáng viên tri phủ và tri huyện Thiên Tân xuống làm lính, đồng thời phạt 20 người và phải xử tử 20 người Hoa khác để làm vừa lòng Pháp và các nước (theo The New Encyclopedia Britannica, Helen Hemingway Benten, Publisher 1973-1974. Cuốn 7, tr. 770. Đây là cuốn Bách khoa đại tự điển bằng chữ Nho, nên tôi chỉ nhờ người quen lược dịch mà không viết nguyên văn vào đây được. Trong cuốn Tăng Quốc Phiên trí mưu toàn thư, quyển hạ, chương Thanh sử cảo, Quyển 40; Quốc Phiên truyện, tr. 1016 cũng tường thuật vụ Thiên Tân nói trên, nhưng số người bị xử tử là 17 người thay vì 20 như trong cuốn Bách khoa đại tự điển).
Vụ cô nhi viện Thiên Tân chỉ đơn giản như thế, quan địa phương Trung Hoa có quyền đến cô nhi viện để điều tra cho rõ thực hư về tin đồn mua bán trẻ con, là một việc làm cần thiết không có gì sai trái cả. Còn việc quần chúng uất hận đánh chết người là ngoài ý muốn chứ không phải triều đình nhà Thanh chủ trương.
Thí dụ 3: Năm 1850 ở Trung Hoa có loạn Thái Bình Thiên Quốc với đạo quân Giê Su, Hồng Tú Toàn chỉ huy con chiên đánh chiếm nhiều tỉnh.
Thí dụ 4: Lê Văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt, chiếm toàn tỉnh Gia Định năm 1835. Giáo sĩ Marchand (cố Du) đóng vai cố vấn và yểm trợ với âm mưu thiết lập một vương quốc Công giáo ly khai. Về sau triều đình dẹp yên.
Thí dụ 5: Cùng thời (khoảng 1872), tại Bắc Kỳ, Tạ Văn Phụng được các giáo sĩ đổi tên thành Lê Duy Phụng rồi cùng với giáo dân nổi loạn chống lại triều đình núp dưới chiêu bài "Khôi phục nhà Lê".
Thí dụ 6: Ngay cả sau khi Nguyễn Trường Tộ chết, Linh mục Trần Lục, quản xứ Phát Diệm, năm 1886 nhận phép "lành" của Giám mục Puginier rồi tiếp viện cho quân Pháp 5.000 giáo dân. Vì vậy, chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng bị thất thủ (... père Tran Luc, curé de Phát Diệm
Celui-ci avec la bénédiction de Mgr. Puginier vint à la rescousse des Francais avec 5000 chrétiens. Et Ba Dinh fut pris (Linh mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn Thập giá và lưỡi gươm (Dieu et Casar)), Paris 10. 1978, pp. 41-42).
Hiện tượng núp bóng tôn giáo cho mục tiêu chính trị và quân sự cũng được công sứ Bonnal cho biết: "Khi một giáo sĩ đã thiết lập được một xứ đạo trong một làng rồi thì chuyện gì sẽ xảy ra? Người bản xứ từ chối không đóng thuế và tuyên bố không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của ông giáo sĩ, là người đích thân dạy cho giáo dân không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của giám mục..." (Nguyễn Xuân Thọ, Sđd, tr. 360-361).
Giám mục Puginier cũng nói thẳng:
"Không có các giáo sĩ và giáo dân thì người Pháp cũng giống như cua bị bẻ gãy hết càng"(Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes).
Hành động của giáo sĩ người Tây và giáo dân như thế mà Nguyễn Trường Tộ lại đề nghị mỗi tỉnh mở một viện mồ côi và nhà dưỡng lão, rồi lại nhờ ông tình báo Gauthier cử tu sĩ đến cai quản. Tu sĩ sẽ đổi đạo dân trong vùng, sau đó hô hào con chiên tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi Đại Nam thì triều đình vô phương đối phó.
Các thí dụ và dẫn chứng trên cho thấy, hoặc vô tình hay cố ý, nhà "thông thái" Nguyễn Trường Tộ đề nghị mỗi tỉnh lập một nhà nuôi trẻ do Giám mục tình báo Gauthier cử người điều khiển, là một kế hoạch vô cùng nguy hiểm. Không những tạo thế hợp pháp cho các giáo sĩ nước ngoài, mà còn trải rộng mạng lưới tình báo khắp toàn quốc để cho Pháp và Vatican dễ dàng và nhanh chóng thống trị và đồng hóa dân tộc ta.
Song song với sự tai hại trên, các nhà nuôi trẻ cũng là kế hoạch trồng người, một mặt thì cải đạo con người từ nhỏ và mặt khác là để chọn người tu.
Hậu ý của Nguyễn Trường Tộ sau bức màn của bản điều trần này là gì?
Ông đi vòng vo tam quốc giả vờ đề nghị chỉnh trang cái này, cải cách cái nọ, giọng văn nhiều chỗ trông có vẻ thành khẩn giống như có lòng yêu tổ quốc thực sự. Nhưng chủ tâm không phải cái đó, mà thâm ý là đề nghị triều đình mời hoặc bổ nhiệm mỗi tỉnh một ông linh mục hay giám mục, để thực hiện chương trình Ki Tô giáo và Pháp hóa đất Việt theo kế hoạch của Puginier và của Gauthier (thầy và cố vấn của Nguyễn Trường Tộ). Kế hoạch này núp dưới chiêu bài viện dục anh và trại tế bần.
Nguyễn Trường Tộ lại bồi thêm một nhát dao chí tử khác vào cơn bệnh trầm kha của triều đình bằng cách, đề nghị đào một con kênh từ Hải Dương vào kinh đô Huế để phu dân phục vụ khổ cực thì sẽ có một loạn Chày Vôi khác chống lại triều đình. Kế hoạch ba mặt giáp công vua quan Đại Nam làm sao chống đỡ nổi: Bên ngoài Pháp đánh vào, bên trong phu đào kênh đánh ra. Tại các tỉnh, linh mục và giám mục hô hào con chiên nổi dậy chiếm các công sở, sử dụng khí giới tối tân của thực dân mặc sức tha hồ cướp của giết người. Đây là một trọng tâm chính của bản điều trần Tám điều lợi cần làm gấp của Nguyễn Trường Tộ.
Phần tiếp theo sẽ bàn quan điểm của Nguyễn Trường Tộ về tôn giáo.
Bùi Kha
(Còn nữa...)
"Nguyễn Trường Tộ và Vấn Đề canh Tân", tác giả là Bùi Kha, do nhà Xuất bản Văn học cấp giấy phép, Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học ấn hành, đã được chính thức phổ biến trên toàn quốc, hoặc có thể liên lạc mua tại Trung tâm Nghiên Cứu Quốc Học, 72 Trần Quốc Thảo, P. 8, Quận 3, TP HCM. Phone (84-8) 6 290-7430, fax (84-8) 3 551-0906.
TG & DT: Được sự đồng ý của tác giả, trang nhà sẽ lần lượt đăng nội dung quyển sách vào các kỳ tới. Mời bạn đọc đón đọc.
TG & DT trân trọng kính mời các nhà nghiên cứu, giới sử học, bạn đọc gần xa cùng trao đổi về chủ đề trên một cách chân thực, khoa học để chân dung Nguyễn Trường Tộ sớm được soi rọi khách quan, đúng chân giá trị lịch sử.