Chánh niệm là sự an trú tâm ý vào các thiện pháp, không bị các bất thiện pháp chi phối. Các niệm tưởng có chánh kiến, chánh tư duy được xem là chánh niệm.
Thanh Tịnh Đạo luận nói: Khi hành giả xa lìa bốn tà niệm thì gọi là an trú chánh niệm. Bốn tà niệm đó là:
1. Cho rằng thân thể là thanh tịnh, tốt đẹp đáng được yêu chuộng, ưa thích trong khi thân thể vốn bất tịnh do các duyên giả hợp mà thành.
2. Cho rằng các cảm thọ (lạc thọ, khổ thọ, bất khổ, bất lạc thọ) là thật nên yêu thích, tham đắm, hoặc chán ghét v.v.. Nhưng tất cả cảm giác, cảm nhận đều do duyên sinh không thực thể, không nhất định.
3. Cho rằng tâm thức là trường tồn, bất biến (chấp thường) trong khi tâm luôn thay đổi, vô thường.
4. Cho rằng vạn hữu là thật có, là hữu ngã, có thật tính trong khi thế giới sự vật hiện tượng là duyên sinh vô ngã, luôn chuyển biến, đổi thay.
Như thế thì chánh niệm là sự an trú tâm ý vào bốn niệm xứ: Thân thể, cảm thọ, tâm ý và các đối tượng của tâm ý.
Thường ngày chúng ta để cho tâm chúng ta rong chơi, chạy đuổi theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, chúng ta không có chánh niệm. Khi chúng ta ngồi lại tụng kinh, niệm Phật, hành thiền v.v.. là chúng ta quay về với chánh niệm. Chúng ta không để cho tâm rong ruổi theo trần cảnh, không để cho tâm bị lôi cuốn, ràng buộc bởi các duyên, không để cho tâm lọan động bởi các niệm tưởng, mà để cho tâm an trú vào các thiện pháp, để cho tâm thanh tịnh, sáng suốt, đó chính là sống trong chánh niệm. Tuy nhiên, nếu tụng kinh, niệm Phật mà để cho tâm lăng xăng, thân một nơi mà tâm một ngả, phan duyên, khởi phiền não, vọng tưởng thì cũng không phải là sống trong chánh niệm.
Người có chánh niệm biết rõ mình đang nghĩ gì, làm gì, tâm có phiền não, vọng tưởng hay không, biết rõ đâu là việc làm đưa đến an lạc, hạnh phúc (hành động thiện), đâu là con đường đưa đến bất hạnh, khổ đau (hành động bất thiện). Người có chánh niệm ý thức rõ sự có mặt của mình và những người xung quanh trong từng thời khắc hiện tại, ý thức rõ những gì đang diễn ra, ý thức được sự sinh diệt, vận hành của các pháp. Người không có chánh niệm thường sống trong ảo tưởng, mơ hồ, bị trần duyên lôi cuốn, chạy đuổi theo sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp dẫn đến tạo nghiệp và cuối cùng là nhận lãnh khổ đau.
Khi tâm chúng ta không chạy đuổi theo trần cảnh, không bị ngoại duyên chi phối, bên trong không còn vọng động móng khởi theo pháp trần, không còn bám víu quá khứ, vọng tưởng tương lai thì lúc đó không có sự hiện hữu của lo lắng, sợ hãi, bất an, đau khổ. Khi không có chánh niệm hoặc năng lực chánh niệm quá yếu, con người dễ bị lôi cuốn bởi các pháp ác, bất thiện (các pháp đưa đến khổ não, bất an). Trong cuộc sống đời thường, các pháp ấy là: trộm cướp, tà dâm, rượu chè, cờ bạc, nghiện ngập, xì ke ma tuý, tham đắm tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, đố kỵ, ghen ghét, giận hờn, hơn thua tranh đấu, oán thù v.v.. Lúc đó chúng ta hoàn toàn bị xâm chiếm cả về thể xác lẫn tinh thần, chúng ta mất đi nhiều niềm vui, mất đi sự tự do, thanh thản của tâm hồn, không tìm được hạnh phúc chân thật lâu bền trong cuộc sống. Chánh niệm chính là nghệ thuật sống tích cực để đời sống chúng ta thật sự có giá trị và ý nghĩa, để đời sống chúng ta thật sự có hạnh phúc.
Chánh niệm chẳng những là năng lực giúp chúng ta đạt được đời sống an lạc trong hiện tại và tương lai, mà còn dẫn đến thành tựu thiền định và trí uệ giải thoát. Nhưng thực hành chánh niệm như thế nào để đạt được điều đó?
Đức Phật dạy chúng ta thực hành chánh niệm về thân thể, về cảm thọ (lạc thọ, khổ thọ, bất lạc bất khổ thọ), về tâm ý (tham, sân, si, mạn v.v..), về đối tượng của tâm ý, tức các pháp (tất cả sự vật, hiện tượng tâm lý, vật lý v.v..)
Trong kinh Niệm Xứ số 10 thuộc Trung Bộ kinh, Đức Phật dạy các thầy tỳ kheo thực hành chánh niệm bằng pháp môn Tứ Niệm xứ như sau:
1. Quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
2. Quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
3. Quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Cũng tương tự như kinh Tứ Niệm xứ, trong kinh Thân hành niệm, Đức Phật dạy về pháp quán thân trên thân có: quán niệm hơi thở vô, hơi thở ra; quán niệm các oai nghi của thân (đi, đứng, ngồi, nằm) và quán niệm các hoạt động của thân (đi tới, đi lui, làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ v.v..), biết rõ việc mình đang làm, nhất cử nhất động đều tỉnh giác ý thức rõ ràng).
Về pháp quán niệm cảm thọ trên các cảm thọ, Đức Phật dạy trong bài kinh Tứ Niệm xứ như sau: Khi cảm giác lạc thọ, chúng ta tuệ tri lạc thọ, khi cảm giác khổ thọ, chúng ta tuệ tri khổ thọ, và khi có cảm giác bất khổ, bất lạc thọ (cảm giác trung tính, không khổ không vui) thì tuệ tri bất khổ bất lạc thọ. Ta sống an trú chánh niệm, không chấp trước và biết rõ sự sinh khởi, diệt tận của các thọ.
Về pháp quán tâm trên tâm, Đức Phật dạy: Khi tâm có tham, sân, si, chúng ta tuệ tri tâm có tham, sân, si; khi tâm không có tham, sân, si, chúng ta tuệ tri tâm không có tham, sân, si. Khi tâm định tỉnh ta tuệ tri tâm định tỉnh, khi tâm tán loạn ta tuệ tri tâm tán loạn. Chúng ta thường tỉnh giác chánh niệm biết rõ sự sinh diệt, hiện hành của tâm.
Về pháp “quán pháp trên các pháp”, Đức Phật dạy:
- Đối với năm triền cái (dục tham, sân, hôn trầm, thuỵ miên, trạo hối, nghi) chúng ta tuệ tri rõ ràng trong nội tâm có mặt hay không có mặt năm triền cái, tuệ tri rõ ràng sự sinh khởi và đoạn diệt của năm triền cái.
-Đối với ngũ uẩn, chánh niệm tỉnh giác trước sự tập khởi và đoạn diệt của sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
- Đối với sáu nội xứ, ngoại xứ, tuệ tri sự sinh khởi và đoạn diệt của các kiết sử khi sáu nội xứ (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và sáu ngoại xứ (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) tiếp xúc duyên với nhau.
- Đối với Thất giác chi, tuệ tri rõ ràng nội tâm có hay không có niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả giác chi. Thất giác chi sinh khởi và được tu tập viên mãn như thế nào.
Đối với Tứ thánh đế, như thật tuệ tri đây là khổ, đây là Khổ tập (nguyên nhân của khổ), đây là Khổ diệt (sự chấm dứt khổ) và đây là Khổ diệt đạo (con đường đưa đến khổ diệt).
Con đường từ chánh niệm đến thiền định giúp chúng ta thoát ly khỏi sự ràng buộc, chi phối của các tham muốn, dục vọng tiêu biểu là sự khao khát, say mê, tham đắm tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống hưởng thụ, ngủ nghỉ…), giúp tâm an định, không còn những lo lắng, sợ hãi, bất an, đem lại cho chúng ta niềm hỷ lạc từ thô cho đến tế, hơn hết là niềm hỷ lạc vi diệu mà chỉ có hành giả tu tập mới có được (đây là sự hỷ lạc do tâm an định, tự tại giải thoát, khác với sự hỷ lạc tạm thời và đưa đến nguy hại, khổ đau do các dục mang lại). Gía trị lớn nhất của chánh niệm là làm nền tảng vững chắc cho thiền định đưa đến thành tựu trí tuệ giải thoát.
Minh Đức
Theo: Tạp chí Đạo Phật ngày nay, số 13