Niềm an vui chỉ có khi tâm chúng ta chấm dứt phiền não khổ đau. Vì thế, để có được
an vui, không gì hơn là chúng ta dẹp sạch hết những mầm mống gây đau khổ cho mình, cho người. Muốn thế, chỉ có một con đường duy nhất, đó là tu tập để tịnh hóa thân tâm mà thôi.
Người Phật tử khi đã quyết tâm tu, trước phải có đức tự tín, không nên băn khoăn. Tại sao? Vì trong lòng băn khoăn thì việc làm sẽ không tới nơi, vì vậy người tu phải cương quyết. Đức tự tín của người tu, không có nghĩa là tự kiêu, tự đại. Tự tín ở đây tức là tin chắc mình là Phật và mình tu sẽ thành Phật. Tin một cách khẳng định như vậy,
nhất định việc tu
sẽ tiến. Có thành tựu đức tự tín viên mãn, công phu tu của chúng ta mới thành công được.
Chúng ta đã biết mọi thứ vẽ vời trên cuộc đời này đều từ cái tâm vọng tưởng đảo điên mà ra. Tâm ấy không phải là tâm chân thật của mình. Do đó, ngày nay gặp Phật pháp, được chỉ phương pháp tu hành, chúng ta đừng lầm nó nữa, đừng tin cái tâm không chân thật ấy nữa. Phải khẳng định tâm thể thanh tịnh chân thật của mình, muốn thế, phải cố gắng buông bỏ hết vọng tưởng, để tâm chân thật hiện bày.
Sống được với tâm thể của mình rồi thì tất cả những lăng xăng rối rắm chung quanh sẽ không làm gì được ta, muốn thế phải tin mình có khả năng thành Phật. Dù bây giờ chúng ta vẫn còn lang thang trong kiếp sống phiêu linh lãng tử, trôi giạt mãi theo tâm viên ý mã, nhưng chủng tử Phật vẫn chưa hề mất bao giờ cả. Nhận định rõ như vậy, từ đây về sau chúng ta có được niềm tin vững mạnh, thì việc tu hành mới đạt kết quả tốt. Nhất định chúng ta phải tin tâm mình là Phật, sống lại với tâm đó, tất cả những gì chung quanh buông bỏ hết. Như vậy mới an ổn được.
Tam tổ Tăng Xán trong bài “Tín Tâm Minh” đã dạy rất rõ về việc tin tâm mình, tức tin vào tâm chân thật không hai của chúng ta. Ai tin được tâm đó thì hiện tiền sống Phật, làm việc Phật, hít thở Phật, cái gì cũng Phật hết. Từng bước đi nở hoa sen, ở đâu cũng là cõi tịnh lạc, lúc nào cũng thấy một trời xuân tươi thắm.
Điều quan trọng là chúng ta phải tỉnh, phải quyết tâm quay về sống với mình và tin chắc vào khả năng thành Phật của chính mình. Người con Phật là người can đảm, không
ỷ lại, không trông cậy vào những thế lực ngoài mình. Nếu nương tựa bên ngoài, qua một thời gian nào đó chúng ta sẽ bị mất mình. Vì những gì bên ngoài là của bên ngoài, nó không phải là cái của mình. Người tu phải nhận và sống lại với cái của mình, cái bên ngoài chỉ là ngoại duyên trợ giúp chúng ta thôi.
Trong Kinh, chư Phật tổ thường nói chúng sanh bỏ quên hạt ngọc của mình, tự quay lưng với mình nên bị mất mình. Mất mình là như vậy, là mất đi tự tính sáng suốt, chớ không phải mất thân mạng này. Cho nên quan trọng là phải phát huy cái chân thật, cái sẵn có của chính mình bằng niềm tự tin nơi ta. Đó là điều thứ nhất.
Chúng ta làm bất cứ việc gì bằng tâm chân thật, nhất định sẽ dẫn đến kết quả tốt đẹp. Bước đi của Phật, Bồ-tát có hoa sen nở, để nói lên sự thanh thản, giải thoát, tươi đẹp của những bậc đã giác ngộ giải
thoát. Nếu chúng ta không vướng bên này, không mắc bên kia, không đầu tư lời lỗ gì cả thì có thể từng bước đi của mình cũng có hoa sen đỡ dưới chân. Ngược lại, nếu bước đi mà canh cánh trong lòng, nào là việc hơn việc thua, thương giận… thì chẳng những hoa sen đỡ không nổi, mà mình bước tới đâu quả địa cầu này rung rinh sắp sụp tới đó. Bởi vì nó nặng nề quá, tăm tối phiền não chồng chất trong tay nải của mình, thành ra không có
cái gì đỡ nổi những bước chân như thế.
Muốn ung dung tự tại trước mọi cảnh duyên chung quanh, luôn cả những nguy hiểm trước mắt, chúng ta phải có đức quả cảm. Điều này nói thì dễ dàng, nhưng làm không phải dễ. Trong đời sống, trong việc làm, trong ngôn ngữ, nếu chúng ta không vững vàng, trong lòng bất ổn thì sẽ vướng mắc ngay. Nếu là người tu chân thật chúng ta nên tự xét lại mình để rồi dứt khoát, cái nào ra cái nấy, như vậy thì mới an lạc. Thật ra cảnh duyên bên ngoài không tự nói sẽ làm khó chúng ta đâu, không có ngọn núi nào nói sẽ cản trở người leo núi cả.
Khi nào chúng ta sáng suốt, làm chủ được mình thì tất cả ngoại duyên bên ngoài ta đều sử dụng đúng với tinh thần đạo lý. Trái lại tâm không sáng, chí không vững, chúng ta sẽ bị những thứ ấy xoay chuyển và rồi mình lại ngược xuôi theo chúng. Cả đời loay hoay lẩn quẩn, cuối cùng chuốc lấy khổ đau, làm gì cũng vướng mắc hết. Đó là hiện thực mà người tu phải biết và phải sắp xếp sao cho việc tu hành của mình tiến được.
Phật tâm của mình, ai cũng có nhưng vì mãi chạy theo bên ngoài nên chúng ta quên mất nó thôi. Như bây giờ nghe ai chửi mình, ta hãy khoan, đừng vì tiếng chửi mà nổi giận. Hãy soi thủng, bình tĩnh nhận lại, sống lại với tánh giác hay nghe của mình. Quí vị soi thủng, nhận lại, sống được với tánh giác thì tiếng chửi kia sẽ không dẫn quí vị đi đâu hết. Chứ vừa nghe người ta nói lời gì đó, chưa hẳn chửi mình nữa, ta liền nghĩ đủ cách để đối phó thì dĩ nhiên tánh giác đã bị mờ đi rồi, phiền não sẽ lấp đầy trong tâm và ta thọ nhận khổ đau, tức giận.
Cho nên người muốn sống lại với tánh giác của mình thì không hành động như vậy. Đối với tất cả các duyên lúc nào cũng bình tĩnh, sáng suốt, không lầm, không chạy theo, không mắc mứu bởi các duyên bên ngoài. Bởi tánh giác không hình tướng nên không thể chỉ ra cụ thể, song nếu chúng ta nghiệm cho kỹ, ai cũng có sẵn hết. Do có tánh giác ta mới có thể nhận biết rõ ràng mọi thứ mà không cần suy nghĩ gì cả. Cái nhận biết vô tư ấy mới đích thực chân thật, không sai lầm. Thế nhưng chúng ta cam chịu mất mình, ít khi sống được với cái chân thật này lắm. Đó là điểm khuyết dở cần phải chừa bỏ.
Chúng ta đã có
tánh giác sẵn mà bảo tu là tu làm sao? Đây lại là một vấn đề nữa. Có tánh giác nhưng mình bỏ quên nên cũng như không. Giống người có tài sản lớn nhưng lỡ bỏ quên ở đâu rồi, bây giờ hiện tại
không có nên cũng thành kẻ nghèo thiếu. Nói tu là tu chỗ này, nghĩa là làm sao sống lại được với tánh giác sẵn có của mình. Thành ra tuy có tánh
giác sẵn mà
phải tu. Tại sao phải tu? Tu để nhận lại cái sẵn có ấy, đừng quên nó nữa. Nó với
mình không phải là hai nên khi nghe người ta chửi mình vẫn bình thường, được mất buồn vui không còn quan tâm nữa, như vậy mới an lạc được. Bởi vì sống được với tâm chân thật rồi thì bất động.
Như người thế gian ưa thích âm nhạc, khi nghe tiếng nhạc tâm hồn đặt hết vào những âm thanh ấy, quên cả thời gian, không gian. Có khi
ngồi hằng giờ lắng nghe như vậy vẫn không thấy
mệt thấy chán. Cũng thế, người tu khi sống được với tánh giác hoàn toàn trọn vẹn rồi thì cảnh duyên bên ngoài sẽ không can hệ gì mình nữa. Hiện tại chúng ta còn bị can hệ nhiều, phải không? Cảnh nào bên ngoài cũng làm mình vui buồn, phiền não, thoái tâm Bồ-đề, tại vì mình chưa sống được với tánh giác. Bây giờ chúng ta sẵn sàng buông bỏ tất cả để sống lại với tánh giác của mình. Tu như thế mới đúng với tinh thần của người tu nhất.
Nếu chịu khó nghiệm kỹ lại, chúng ta sẽ thấy mình sống rất vô lý. Tại sao vô lý? Những thứ hư giả không thật, càng chạy theo càng mắc mứu, càng tạo nghiệp càng chuốc quả khổ, vậy
mà chúng ta vẫn cứ chạy theo nó. Từ sáng sớm mở con mắt ra cho đến tối nhắm mắt
lại ngủ, không lúc nào mình có được phút giây dừng lại. Chúng ta cứ lăn xả vào nghiệp lực, hăng say trong cuộc diện ấy, như thế mà nguyện Phật cho con được an lạc thì làm sao an lạc được? Phật nào có thể cứu giúp người thích bơi lội trong sự si mê vô lý. Nói vô lý vì
mình đã có cái chân thật mà không chịu nhận, cứ lao
đầu vào cái điên đảo hư giả
rồi than khổ và cầu Phật cứu khổ. Cứ chấp nhận kéo
dài cuộc sống lê thê trong sự vô lý đó. Càng vô lý càng điên đảo, càng điên đảo càng thêm vô lý, cho nên lăn
lộn trong vòng luân hồi không dừng. Có một nhà thơ
đã diễn đạt ý này thật khéo: “Lang thang từ độ luân hồi, vô minh nẻo trước xa
khơi dặm về”.
Mục đích rốt ráo của chúng ta là tu hành giác ngộ để được an vui vĩnh viễn, chấm dứt phiền não khổ đau. Đó cũng chính là mùa xuân bất diệt không có thời gian và không gian giới hạn. Ở đó đất tâm luôn trổ những đóa hoa ngát hương thơm của trí tuệ và từ bi. Cho nên để có một mùa xuân miên viễn, xin mời tất cả hãy phá tan cánh cửa nhân ngã thị phi, cầm kiếm trí tuệ xông thẳng vào đất tâm thênh thang.
HT. Thích Nhật Quang