Tất nhiên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoàn toàn có đủ tầm nhìn để thấy rõ mình có thể làm gì để giữ vững những thứ nội lực đã có cũng như tạo điều kiện cho những thứ nội lực chưa có, sẽ được hình thành. Vì đó mãi mãi là nền tảng để cho không chỉ Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ 21 chuyển mình, khế cơ, mà là Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong các thế kỷ sau cũng vậy.
Phật giáo Việt Nam trong gần 2.000 năm tồn tại và phát triển đồng hành cùng với dân tộc, đã luôn nói đến cũng như cố gắng thực hiện hai yếu tố: khế lý và khế cơ. Khế lý là nhấn mạnh về tính tư tưởng. Khế cơ là nhấn mạnh về tính lịch sử. Nhờ khế lý nên tư tưởng luôn phong phú, sâu sắc mà mình vẫn là mình.
Do khế cơ nên mọi hình thái sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt luôn đa dạng, gắn bó mà không hề mất gốc. Có thể tạm so sánh: khế lý là phần nội lực; Khế cơ là phần chuyển mình để đi tới, vươn tới cùng hội nhập. Như thế thì chuyển mình để đi tới, vươn tới cùng hội nhập, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải dựa trên nền tảng là nội lực.
Nội lực của Phật giáo Việt Nam có thể chia làm 2 phần là hình thức và nội dung.
Hình thức là chỉ cho phần trụ xứ (tự viện, thiền viện, tịnh xá, thiền thất…) giảng đường, cách thức thờ tự, tượng đài, pháp phục, lễ phục, cờ phướn trang hoàng v.v…
Nội dung thì bao gồm 2 phần là tu tập và tu học(1). Tu tập là phần tụng niệm, hành thiền, ứng phú, trai đàn, chẩn tế, truyền giới, thọ giới, an cư, kiết hạ… Tu học là phần giáo dục theo thứ lớp từ thấp đến cao, thuyết pháp, diễn giảng, in ấn phát hành kinh sách, báo chí, biên dịch, soạn thuật… Toàn bộ phần tu tập - tu học ấy đều được dựa trên nền tảng là Tam tạngKinh Luật Luận bằng tiếng Việt, tức là Đại tạng kinh Việt Nam.
Gút lại, bàn về phần chính của nội lực ở đây là bàn về Đại tạng kinh Việt Nam cùng những hệ luận và khai triển: Thánh điển Phật giáo Việt Nam, Tục tạng Phật học Việt Nam, Bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Bộ Văn học Phật giáo Việt Nam, Bộ Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Bộ Giáo khoa Phật học Việt Nam, Bộ Danh Tăng Phật giáo Việt Nam… Chúng tôi xin lần lượt bàn tóm tắt qua từng mục.
1. Đại tạng kinh Việt Nam:Sau gần 40 năm thực hiện(2), đến nay (cuối năm 2011) sự nghiệp phiên dịch để hoàn thành Đại tạng kinh (ĐTK) Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng phấn khởi:
a. ĐTK Việt Nam - Phần Phật giáo Nam truyền:
* Bốn bộ Nikàya (Trường bộ, Trung bộ, Tương ưng bộ, Tăng chi bộ) đã được Hòa thượng Minh Châu Việt dịch.
* Kinh Tiểu bộ (Gồm 15 mục) cũng đã được nữ Cư sĩ Trần Phương Lan Việt dịch.
* Tạng Luận và Tạng Luật (?) cũng được chư vị bên Nam tông Việt dịch.
Như vậy, cần có sự tập hợp thông qua để khẳng định ĐTK Việt Nam phần Phật giáo Nam truyền đã hoàn thành.
b. ĐTK Việt Nam - Phần Phật giáo Bắc truyền: ĐTK Việt Nam - Phần Phật giáo Bắc truyền, hiện tại là Việt dịch từ ĐTK chữ Hán (sau này có điều kiện sẽ tham khảo thêm ĐTK chữ Tây Tạng). Ngoại trừ Bốn bộ A Hàm (Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm) đã được Việt dịch do Viện Nghiên Cứu Phật học Việt Nam ấn hành, hiện nay, theo chỗ chúng tôi được biết thì có 3 (ĐTK) Việt Nam đã và đang thực hiện.
* ĐTK Linh Sơn Pháp Bảo: Do Hòa thượng Tịnh Hạnh (định cư ở Đài Loan) sáng lập và bảo trợ, hoạt động từ năm 1994, đã in được Tạng kinh gồm 70 tập: Việt dịch từ 17 tập nơi Tạng kinh của Đại tạng kinh Đại chánh tân tu (ĐTK/ĐCTT): Tập 1 đến tập 17. Không dịch bộ Mật giáo (Từ tập 18 " 21) chỉ đưa Kinh Thủ Lăng Nghiêm (ĐTK/ĐCTT Tập 19, N0 945, 10 quyển) đã được ĐTK/ĐCTT sắp vào bộ Mật giáo lên bộ Kinh tập, biên tập theo bản Việt dịch của Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám.
* ĐTK Việt Nam: Do Thượng tọa Tuệ Sỹ chủ biên: Đã in phần Tạng Thanh văn.
* ĐTK Tuệ Quang: Do Cư sĩ Nguyên Hiển (Bác sĩ Trần Tiễn Huyến) sáng lập và bảo trợ, hoạt động từ năm 2006, đến đầu năm 2012 thì dịch xong Tạng Luận: Việt dịchtừ 8 tập nơi Tạng Luận (tập 25 " tập 32) của ĐTK/ĐCTT, đang chuẩn bị in 2 tập 25, 26. Sau Tạng Luận thì đến Tạng Luật.
Như thế, trong vòng 2 - 3 năm nữa, ĐTK Việt Nam phần Phật giáo Bắc truyền sẽ hoàn thành, tức ĐTK Việt Nam bước đầu đã hoàn thành, là một Phật sự lớn, góp phần chính để khẳng định bản sắc của Phật giáo Việt Nam. Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã và cần có những quan tâm hơn nữa đối với những hoạt động của các ĐTK kể trên(3). Có ĐTK Việt Nam thì các vấn đề như Nghi lễ, Nghi thức tụng niệm v.v… sẽ được điều chỉnh một cách thuận hợp.
2. Bộ Thánh điển Phật giáo Việt Nam: Vì ĐTK Việt Nam, nhất là phần Phật giáo Bắc truyền là quá nhiều, nên cần có bộ Thánh điển Phật giáo Việt Nam(4) mang tính rút gọn và tiêu biểu đối với ĐTK Việt Nam, làm chỗ dựa cho mọi sự nghiên cứu - trừ trường hợp nghiên cứu chuyên sâu thì tham khảo nơi ĐTK Việt Nam - trích dẫn, giảng dạy, diễn giảng… Thư viện của các trường trung cấp Phật học, cao đẳng Phật học… có thể không có ĐTK Việt Nam, nhưng đều phải có bộ Thánh điển Phật giáo Việt Nam. Các tự viện lớn, các thiền viện, tịnh xá lớn, kể cả các thư viện tư nhân cũng thế. Tất nhiên, chư vị thực hiện công việc tuyển chọn cho nội dung bộ Thánh điển Phật giáo Việt Nam sẽ có những trao đổi, những tham khảo hợp lý(5). Công việc ghi chú, chú thích giữ vai trò quan trọng trong bộ Thánh điển Phật giáo Việt Nam.
* Ghi chú về các từ ngữ, thuật ngữ, nhân danh, địa danh… được Hán dịch qua các đời.
* Ghi chú về các thuật ngữ Phật học nơi Ba tạng Kinh Luật Luận có ít nhiều khác nhau giữa hệ cựu dịch và tân dịch.
* Ghi chú về các tài liệu tham khảo nơi Hán tạng hoặc các bản dịch sang tiếng Anh, Pháp, Đức…
3. Bộ Tục tạng Phật học Việt Nam: Trước năm 1975, đã có vị trong Hội đồng Phiên dịch Tam tạng (ĐTK Việt Nam) nêu câu hỏi: “Những bộ Luận do chư Tổ Việt Nam sáng tác, có nên đưa những tác phẩm ấy vào Tam tạng Việt Nam không?” và Hội đồng Phiên dịch Tam tạng - Do Hòa thượng Trí Tịnh làm Trưởng ban, Hòa thượng Minh Châu làm Phó ban - Ngày ấy chư vị còn là Thượng tọa - đã biểu quyết là phải đưa vào ĐTK Việt Nam nếu xét thấy tác phẩm có giá trị(6). Biểu quyết như thế là hợp lý.
Vì nếu tham khảo nơi ĐTK Đại chánh tân tu của Trung Hoa, chúng ta nhận thấy toàn bộ các tác phẩm soạn thuật, biên khảo, sớ giải của các Đại sư, các nhà Phật học Trung Hoa qua các đời, đều được đưa vào ĐTK này nơi các bộ Sớ giải (Kinh Luật Luận), Chư tông, Sử truyện… Tuy nhiên, theo chúng tôi, vì ĐTK Việt Nam phần Phật giáo Bắc truyền đã quá nhiều, chúng ta nên tạo một bộ phận riêng có thể mang tên là Tục tạng Phật học Việt Nam, tập hợp thâu nhận toàn bộ các tác phẩm biên soạn, khảo cứu, chú giải của chư vị thiền sư, các nhà Phật học Việt Nam trong quá khứ - kể cả những bản Việt dịch Kinh Luật Luận của chư vị nơi thời cận đại, nhưng đã không sử dụng để đưa vào ĐTK Việt Nam. Tất nhiên các tác phẩm kia, nếu viết bằng Hán văn thì phải được Việt dịch. Nếu là tác phẩm chữ Nôm thì phải được phiên âm, khảo đính. Nếu là tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ thì cần được biên tập, đọc duyệt.
4. Bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam:Hiện chúng ta đã có được 2 bộ sử Phật giáo Việt Nam, biên soạn công phu, có nhiều giá trị. Đó là tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận 1, 2, 3 của Nguyễn Lang, Lịch sử Phật giáo Việt Nam 1, 2, 3 của Lê Mạnh Thát. Bộ sử của Nguyễn Lang, ngay sau khi tập 1 được xuất bản vào năm 1974, đã tạo được tiếng vang rộng lớn và tốt. Các tập 2, 3 xuất bản tiếp theo cũng thế. Năm 1992, toàn bộ tác phẩm đã được Nhà xuất bản Văn Học tái bản, và sau đấy thì tái bản nhiều lần. Bộ sử của Lê Mạnh Thát mới xuất bản đến tập thứ 3, còn ít nhất là hai tập nữa.
Đây là bộ sử Phật giáo Việt Nam được biên soạn theo phương pháp mới: Phân chia thời kỳ lịch sử theo nhân vật chứ không theo triều đại như các bộ sử khác. Nhất là tài liệu tham khảo rất dồi dào, với những phát hiện, công bố, kết luận mới. Ví như năm mất của Quốc sư Vạn Hạnh. Tác giả của tác phẩm Thiền Uyển Tập Anh. Tác giả của bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà không phải là của Lý Thường Kiệt như trước nay đã công nhận… Chư vị nghiên cứu về lịch sử, các vị giảng dạy môn Lịch sử Phật giáo Việt Nam tại các trường cao đẳng Phật học, Học viện Phật giáo Việt Nam - kể cả chư vị giáo sư sử học, văn học nơi các Trường Đại học Quốc gia, cần nên tham khảo để có những kiến thức cập nhật cần thiết về Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nói chung, Sử học là bộ phận mà Phật giáo Việt Nam hiện đại đạt được những thành tựu nổi bật nhất.
5. Bộ Văn học Phật giáo Việt Nam: Đây cũng là bộ sách mà Phật giáo Việt Nam hiện đại cần có. Lý do thì đã quá rõ:
* Thứ nhất: Chư vị Thiền sư Pháp Thuận (915 - 990), Khuông Việt (933 - 1011)… được xem là những nhà thơ mở đầu cho nền Văn học cổ điển Việt Nam. [Đó là chưa kể những công bố của học giả Lê Mạnh Thát về các tác phẩm của Mâu Tử (160 hoặc 164 - 230), Khương Tăng Hội (200 - 280)…].
* Thứ hai: Ni sư Diệu Nhân (1041 - 1113) và Nguyên phi Ỷ Lan (? - 1117) là hai gương mặt thơ nữ đầu tiên của Lịch sử Văn học Việt Nam.
* Thứ ba: Văn học Phật giáo Việt Nam đã giữ vai trò chủ đạo trong suốt năm thế kỷ đầu (từ đầu thế kỷ 10 đến đầu thế kỷ 15, với danh xưng quen thuộc là Thơ Văn Lý Trần) của Lịch sử Văn học Việt Nam.
* Thứ tư: Từ thế kỷ 15 trở đi, cho đến thế kỷ 19, 20, các tác phẩm truyện, thơ, thi kệ - kể cả những bài kệ Thị tịch, Kệ truyền pháp của chư vị thiền sư… đều có nhiều giá trị văn chương, triết lý, mà số lượng chư vị danh tăng cũng nhiều, như học giả Lê Mạnh Thát đã công bố - tất cả đều phải được tập hợp, giới thiệu.
* Thứ năm: Phật giáo đã có ảnh hưởng rất lớn rất đậm đối với văn học Việt Nam, nhất là nơi văn học Hán, Nôm. Hầu hết các gương mặt thơ tiêu biểu của văn học cổ điển... đều chịu ảnh hưởng đậm từ Phật giáo.
Ngoài ra, sách Văn học Phật giáo Việt Nam sẽ giới thiệu, phân tích đầy đủ hơn về một số tác giả, tác phẩm mà ở phần lịch sử Phật giáo chỉ nhắc sơ qua hoặc không nói đến. Lấy thí dụ như tác phẩm Phật giáo lược khảo của học giả PhạmQuỳnh (1892 - 1945) được viết vào năm 1920. Sách Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3 của Nguyễn Lang đã có hai lần nhắc đến Phạm Quỳnh mà không hề nói tới tác phẩm Phật giáo lược khảo. Nhưng nơi sách Văn học Phật giáo Việt Nam, khi viết về Văn học Phật giáo thời kỳ 1885 - 1928 thì không thể không nói đến sách Phật giáo lược khảo. Đó là tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên của văn học Việt Nam khảo cứu về Phật giáo tương đối đầy đủ và nghiêm túc, do một tri thức Việt Nam thực hiện. Không chỉ giới thiệu tác phẩm, sách Văn học Phật giáo Việt Nam còn phải dành một số trang để biện chính, bác bỏ một số luận điểm hoàn toàn sai lạc của Phạm Quỳnh đối với Phật giáo, kể cả những cách đọc sai, giải thích sai của sách (như Tứ diệu đế thì đọc là Tứ diệu đề: Khổ đề, Tập đề, Diệt đề, Đạo đề. Bồ đề tát đỏa đọc là Bồ đề tát thùy. Ngũ ấm thì cho là Ngũ trọc…).(7)
6. Bộ Từ điển Bách khoa Phật giáo Việt Nam:Đây là một công trình đòi hỏi rất nhiều trí tuệ và công sức cũng như cần có những đóng góp từ nhiều lĩnh vực. Trước năm 1975, học giả Lê Mạnh Thát đã bắt đầu thực hiện công việc biên soạn Từ điển Bách khoa Phật học, nhưng rồi không tiếp tục. Hiện tại thì có Thượng tọa Nhật Từ - Viện phó Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, đang chủ biên để thực hiện công trình đồ sộ này. Phần “Dự thảo phân loại các mục từ nơi Từ điển Bách khoa Phật giáo” cũng như “Quy cách biên soạn”(8) đã cho thấy những nỗ lực của người chủ biên trong công việc gồm thâu, mô tả vừa chi tiết vừa gọn đủ và nội dung của bộ sách. Cái khó là tập hợp cùng sử dụng các thành phần cộng sự.
Chúng ta đi sau, có thể tham khảo những công trình của người đi trước vốn có ít nhiều liên hệ. Ví như tham khảo phương thức làm việc của Đại Từ điển Phật Quang. Tham khảo Từ điển Phật học của Lữ Trừng và Ấn Thuận, được trình bày theo cụm chủ đề. Còn đây là ý kiến của Hòa thượng Trí Quang: “Nói về việc làm từ điển thì kinh nghiệm cho thấy đừng làm theo Phật học Đại Từ điển, Phật Quang Đại từ điển. Phật học Từ điển của Vọng Nguyệt cũng phải thu xếp lại xem chỗ nào cần làm như vậy. Nói thí dụ chữ Kiếp có Đại kiếp, Trung kiếp, Tiểu kiếp, bốn từ tất cả. Nếu giải thích tất cả vào trong từ Kiếp thì tra mau và dễ hiểu hơn. Vấn đề ở chỗ làm Mục cho kỹ một chút…”(9). Nói tóm tắt, bộ Từ điển Bách khoa Phật giáo Việt Nam là một trong những đỉnh cao góp phần xác nhận sự lớn mạnh về nội lực của Phật giáo Việt Nam hiện đại. Trong chiều hướng sánh vai với Phật giáo năm châu bốn biển, Phật giáo Việt Nam không thể không có bộ từ điển ấy. Đây là thời điểm mà Phật giáo Việt Nam hầu như đã hội đủ nhân duyên cần có để thực hiện. Xin hết sức tùy hỷ và cầu mong công trình lớn ấy sớm thành tựu.
7. Bộ Giáo khoa Phật học Việt Nam:Bộ phận này đã được ổn định từ lâu. Trước 1975, chúng ta có bộ Phật học phổ thông của Hòa thượng Thiện Hoa (1918 - 1973). Sau ngày Phật giáo hợp nhất, chúng ta có bộ Phật học khái luận của Hòa thượng Chơn Thiện. Gần đây lại có bộ Phật học cơ bản của Ban Hoằng pháp Trung ương (do Hòa thượng Trí Quảng chủ biên). Trong tương lai, chúng ta có thể có thêm những bộ giáo khoa Phật học nữa, hoặc chuyên sâu hơn, hoặc mở rộng hơn, hoặc thể hiện rõ tính chất giáo khoa hơn.
8. Bộ Danh Tăng Phật giáo Việt Nam: Phần này cũng có được những thành quả, vì đấy là hệ luận của lịch sử. Hiện nay, vị chủ biên bộ Danh Tăng Phật giáo Việt Nam thế kỷ 20 là Thượng tọa Đồng Bổn (Trưởng ban Phật giáo Việt Nam thuộc Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam) đang chuẩn bị xuất bản tập 3. Sau chư Tăng là chư Ni cùng các cư sĩ, học giả tiền bối hữu công.
Điểm qua tám danh mục thuộc nội lực của Phật giáo Việt Nam như trên, theo chúng tôi, thật là lý thú khi từ đấy đã hiện rõ câu trả lời vừa đầy đủ vừa dứt khoát đối với câu hỏi đã được đặt ra từ lâu nhưng chưa có lời giải đáp thỏa đáng(10): Thế nào là bản sắc của Phật giáo Việt Nam? Phật giáo Việt Nam có những khác biệt gì so với Phật giáo Trung Hoa? (Hay chỉ là một bản sao lôm côm của Phật giáo Trung Hoa, như có nhà nghiên cứu đã nhận định?). Lời giải đáp đã hiện rõ: Bản sắc của Phật giáo Việt Nam là những đặc điểm nơi một nền Phật giáo của một dân tộc mang tên là Việt Nam, gồm có:
* Một bộ ĐTK gồm đủ Ba tạng Kinh Luật Luận được biên dịch bằng tiếng Việt Nam.
* Một bộ Thánh Điển Phật giáo được biên soạn bằng tiếng Việt Nam.
* Một bộ Tục Tạng Phật học Việt Nam tập hợp toàn bộ các tác phẩm biên dịch, soạn thuật, trứ tác của các nhà Phật học Việt Nam qua các đời.
* Một, hai bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam có giá trị.
* Một bộ Văn học Phật giáo Việt Nam mang đủ tính chất toàn thư.
* Một bộ Từ điển Bách khoa Phật học Việt Nam.
* Nhiều bộ Giáo khoa Phật học Việt Nam.
* Một bộ Danh tăng Phật giáo Việt Nam.
Đây là những điểm khác biệt của Phật giáo Việt Nam, không chỉ đối với Phật giáo Trung Hoa mà là đối với Phật giáo của khắp các nước trên thế giới. Như vậy, bàn về nội lực của Phật giáo Việt Nam cũng là gián tiếp bàn về bản sắc của Phật giáo Việt Nam.
Tám danh mục thuộc về nội lực như đã nêu, có thứ Phật giáo Việt Nam hiện tại chưa có, nhưng rồi sẽ có, sẽ có đầy đủ. Tất nhiên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoàn toàn có đủ tầm nhìn để thấy rõ mình có thể làm gì để giữ vững những thứ nội lực đã có cũng như tạo điều kiện cho những thứ nội lực chưa có, sẽ được hình thành. Vì đó mãi mãi là nền tảng để cho không chỉ Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ 21 chuyển mình, khế cơ, mà là Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong các thế kỷ sau cũng vậy.
-----------------------------
(1) Mọi sự phân loại đều chỉ có giá trị tương đối. Sự phân chia của chúng tôi về tu tập, tu học ở đây cũng thế.
(2) Chúng tôi tính từ năm 1973, năm Viện Tăng thống của GHPGVN thống nhất quyết định thành lập Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng: Hòa thượng Trí Tịnh làm Trưởng ban, Hòa thượng Minh Châu làm Phó ban (ngày ấy hai vị còn là Thượng tọa). Xem: Biên bản hội nghị toàn thể Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng. 1973 - 2517. Bản in ronéo - Lưu hành nội bộ. Năm 1990, Ban Thường trực HĐTS Trung ương GHPGVN quyết định thành lập Hội đồng chỉ đạo Phiên dịch và Ấn hành ĐTK Việt Nam: Hòa thượng Minh Châu làm chủ tịch. Xem: Lễ tiếp nhận và phát hành hai tập kinh đầu tiên của ĐTK Việt Nam. Bản in của Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. Phật lịch 2535 - 1991.
(3) Như Hòa thượng Trung Hậu, Trưởng ban Văn hóa Trung ương GHPGVN đã liên hệ với ĐTK Tuệ Quang để in Tạng Luận của ĐTK Tuệ Quang.
(4) Có vị đã dùng tên là Thánh kinh Phật giáo Việt Nam. Theo chúng tôi thì nên dùng danh hiệu: Bộ Thánh điển Phật giáo Việt Nam. Bộ Thánh điển này hầu như chỉ đặt ra đối với ĐTK Việt Nam phần Phật giáo Bắc truyền.
(5) Thí dụ nơi Tạng Kinh, Bộ Bát Nhã: Chỉ chọn Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa: N0 220, 600 quyển, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng. Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật: N0 223, 27 quyển, Hán dịch là Pháp sư Cưu Ma La Thập. Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật: N0 227, 10 quyển, Hán dịch là Pháp sư Cưu Ma La Thập. Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật: N0 235, 1 quyển, Hán dịch là Pháp sư Cưu Ma La Thập. Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa: N0 251, 1 quyển, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng…
(6) Xem: Biên bản Hội nghị toàn thể Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng. TL đã dẫn, tr.6.
(7) Xem thêm bài viết của Đào Nguyên: Bước đầu đề xuất một chương trình giảng dạy văn học Phật giáo Việt Nam. Nguyệt san Giác Ngộ số 143 " 148. Tháng 2, tháng 7-2008.
(8) Xem: Dự thảo phân loại các mục từ nơi Từ điển Bách khoa Phật giáo. Thích Nhật Từ soạn.
(9) Xem: Trí Quang tự truyện. Nhà xuất bản Tổng Hợp TP. HCM 2011. Trang 47 - 48.
(10) Ví như có người giải đáp: Bản sắc của Phật giáo Việt Nam là luôn gắn bó đồng hành với dân tộc... Vẫn còn là giải đáp chung chung, vì Phật giáo Trung Hoa, Nhật Bản... cũng luôn gắn bó, đồng hành với dân tộc của họ. Tất nhiên những sự gắn bó, đồng hành đặc thù của Phật giáo Việt Nam với dân tộc Việt Nam đã được các bộ phận Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Văn học Phật giáo Việt Nam nêu bày đầy đủ.
Đào Nguyên
Source : http://giacngo.vn/nguyetsan/tulieu/2012/02/18/12541B/