Nhiều người nghĩ lầm là Nguyễn Trường Tộ (NTT) có tư tuởng canh tân đổi mới, thực dụng, và có chương trình mở trường Kỹ thuật… Chúng tôi sẽ dẫn chứng một số đề nghị của ông để biết thực chất về các mỹ từ nêu trên.
A. CHỈNH TRANG VÕ BỊ
(Di thảo số 27- Tế cấp bát điều, viết tháng 11/1867- Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ: con người và di thảo).
Một trong tám kế hoạch cần làm gấp là “Chỉnh trang võ bị” (vui lòng xem bài Bùi Kha - Ý kiến về bài Nguyễn Trường Tộ và khát vọng canh tân, trên báo điện tử Hồn Việt (http://www.honvietquochoc.com.vn) ngày 24/2/2010, mục Trao đổi.
B. LẬP VIỆN DỤC ANH VÀ TRẠI TẾ BẦN
Cách trình bày của NTT có vẻ hợp nhân đạo lúc nuôi dưỡng những trẻ mồ côi và những cụ già không con. Vì thế mà có người đã ca tụng NTT có lòng nhân đạo và kiến thức đi trước thời đại. Nhưng nếu lồng đề nghị này, cũng như các đề nghị khác của ông vào bối cảnh đất nước thời bấy giờ, chúng ta sẽ tiên đoán được dụng tâm của NTT. Ông viết:
- Nếu triều đình cho rằng việc này nên làm thì sẽ nhờ giám mục (tức là ông tình báo Gauthier, BK) mời người đến mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ, không bao lâu sẽ thấy kết quả ngay (Tế cấp bát điều, TBC, sđd, trang 276).
Mời độc giả tìm hiểu tình hình chính trị xã hội của đất nước ta thời bấy giờ, và ý kiến của chính viên chức cao cấp của Pháp để có thể biết được thâm ý của NTT.
Biến cố 1: Năm 1850, ở Trung Quốc có loạn Thái Bình Thiên Quốc với đạo quân Giê-su, Hồng Tú Toàn chỉ huy con chiên đánh chiếm nhiều tỉnh.
Biến cố 2:Lê Văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt, chiếm toàn tỉnh Gia Định năm 1835. Giáo sĩ Marchand (cố Du) đóng vai cố vấn và yểm trợ với âm mưu thiết lập một Vương quốc Công giáo ly khai. Về sau triều đình dẹp yên.
Biến cố 3: Cùng thời, tại Bắc Kỳ, Tạ Văn Phụng được các giáo sĩ đổi tên thành Lê Duy Phụng rồi cùng với giáo dân nổi loạn chống lại triều đình núp dưới chiêu bài khôi phục nhà Lê.
Biến cố 4: Ngay cả sau khi NTT chết, Lm Trần Lục, năm 1886 quản xứ Phát Diệm... nhận phép lành của Giám mục Puginier rồi tiếp viện cho quân Pháp 5.000 giáo dân. Vì vậy, chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng bị thất thủ (“... père Tran Luc, curé de Phát Diệm…Celui-ci avec la bénédiction de Mgr. Puginier vint à la rescousse des Français avec 5000 chrétiens. Et Ba Dinh fut pris”. Linh mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn Thập giá và lưỡi gươm(Dieu et Casar), Paris 10. 1978, pp. 41 & 42).
Hiện tượng núp bóng tôn giáo cho mục tiêu chính trị và quân sự, cũng được công sứ Bonnal cho biết: Khi một giáo sĩ đã thiết lập được một xứ đạo trong một làng rồi thì chuyện gì sẽ xảy ra? Người bản xứ từ chối không đóng thuế, và tuyên bố không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của ông giáo sĩ, là người đích thân dạy cho giáo dân không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của giám mục... (Nguyễn Xuân Thọ, sđd, tr. 360-361).
Hành động của giáo sĩ người Tây và giáo dân như thế mà NTT lại đề nghị mỗi tỉnh mở một viện mồ côi và nhà dưỡng lão, rồi lại nhờ ông tình báo Gauthier cử tu sĩ đến cai quản.
C. MỞ TRƯỜNG KỸ THUẬT
Theo tờ trình của Gauthier (tháng 3/1868) nạp cho triều đình Tự Đức chúng ta thấy, có 4 thầy giáo do NTT và tình báo Gauthier thuê về. Trong đó có 3 linh mục người Pháp. Dụng cụ và phí tổn, tiền ăn ở của phái viên NTT và Giám mục Gauthier cộng với tiền chuyên chở khuân vác và đóng thùng là: 5.120,148 quan. (Lược trích trong TBC, sđd, trang 467 & 468).
Những vật dụng vua ban thưởng cho phái bộ đi mua máy và bốn giáo chức rất hậu hĩ…
Trong việc mở trường huấn nghệ - kỹ thuật, yếu tố quan trọng hàng đầu là phải có quyết tâm. Thứ hai, giáo chức phải có bằng cấp hoặc kiến thức chuyên môn về ngành mà mình được mời dạy. Theo tờ phúc trình của Gauthier và NTT ngày 23/2/1868 gởi cho vua Tự Đức thì các vị giáo chức có bằng cấp chuyên môn để dạy huấn nghệ và kỹ thuật.
Cơ sở do Nguyễn Trường Tộ xây cất ở Sài Gòn. Ảnh TL
Nhưng theo Hội truyền giáo Paris thì mấy ông này không có các bằng cấp hoặc khả năng chuyên môn mà Gauthier mô tả. Nguyên văn: “Theo một tờ phúc trình của Gauthier ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức 21 (23/2/1868):
- Lm. Thông (tức Montrouzies), biết phép toán, bản đồ các nước thiên hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim; biết nói có thứ đất thứ đá ấy thì có những giống chi.
Nhưng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris, thì Linh mục Montrouzies trước khi nhập Hội Truyền giáo Paris, ngày 1/5/1867 đã đậu cử nhân văn chương.
- Linh mục Đồng (tức Renauld) biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt trời mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao cầu viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng, biết làm thu lôi trụ. Nhưng cũng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris thì sau khi học xong chủng viện, Linh mục Renauld gia nhập Hội Truyền giáo Paris ngày 14/10/1866 và theo học một khóa đặc biệt về kiến trúc và họa đồ một năm trước lúc lên đường sang Việt Nam.
- Giáo sĩ (tức bác sĩ Hernaiz) không phải linh mục hay tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo thì không dạy học trò được vì nặng tai, nhưng cũng giúp Linh mục Thông mà phân tích cách tính ngũ kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc.
Nhưng tới Việt Nam chưa được mấy ngày giáo sĩ này do bệnh cũ tái phát đã xin trở lại Pháp.
- Còn Ca Xanh (nguyên tên là Ca Sa Nhi) là một thợ máy, trước đã giúp việc tàu Thuận Thiệp.
Nhưng Ca Xanh đòi lương quá cao (320 đồng/tháng, tính ra tiền là một ngàn, bảy trăm sáu chục quan) và đòi hỏi nhiều điều kiện, nên không dùng” (TBC, sđd, trang 49 & 50).
Các đối chiếu nêu trên chứng tỏ vua quan triều Tự Đức bị thầy trò NTT dối trá lừa bịp có hậu ý.
Việc mở trường kỹ thuật tại Huế là một cái bong bóng để thăm dò, một chương trình hoa mỹ để dễ chui sâu trèo cao. Thật vậy, người chủ chốt việc mở trường Kỹ thuật tại Huế, Gauthier, là một tên tình báo. Mời độc giả xem một số tài liệu dưới đây:
a. Gauthier với hiệp ước mới
Theo thứ tự thời gian, chúng ta thấy Giám mục Gauthier cùng NTT đến chào mừng quân Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng năm 1858 và làm reo để quân viễn chinh đánh Huế cho chóng dứt điểm nhưng bất thành. Năm 1861, theo lời yêu cầu của phó Đô đốc Charner, thầy trò Gauthier về Sài Gòn, để mở rộng vùng chiếm đóng.
Sau khi Hiệp ước 1862 ký giữa Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha, triều đình vua Tự Đức kiếm cách chuộc lại ba tỉnh đã mất. Một người Công giáo cuồng nhiệt là Trung tá Hải quân Aubaret vận động được Bộ Ngoại giao Pháp và vua Napoléon III đồng ý. Vì thế, một hiệp ước mới (thế hiệp ước cũ 1862) được Bộ Ngoại giao và Bộ Hải quân soạn thảo theo quan điểm của vua Napoléon III, và được ký tại Huế ngày 15/1/1864…
Theo Hiệp ước 1864, Aubaret chủ trương chiếm Nam Kỳ bằng con đường tôn giáo và thương mại, chứ không phải Aubaret có lòng tốt gì đối với nhân dân Việt Nam (CHT. sđd, trang 174, 175). Trong triều đình Pháp chia làm hai phe, phe ủng hộ và phe chống. Phe chống khuyên vua đừng phê chuẩn hiệp ước.
Về phía các nhà truyền giáo cũng chia làm 2 phe, phe chống, phe ủng hộ. Chống hoặc ủng hộ cũng cùng một mục đích là đồng hóa dân Việt Nam nhưng theo cách này hay theo cách khác mà thôi. Trong phe ủng hộ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier - hai người có liên hệ đến việc mở trường kỹ thuật nói trên. Thư của Giám mục Lefèbre viết cho Linh mục Pernot, cho chúng ta thấy điều đó: Hiệp ước Aubaret bị dìm, đó không phải là điều rủi ro. Chỉ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier là tán đồng hiệp ước... Nguyên văn tiếng Pháp:
Le traité Aubaret est enfoncé et ce n'est pas un malheur. Il n'y avait que Mgr. Sohier et Mgr. Gauthier qui en paraissaient partisans,… (Cité par CHT, sđd, p. 181).
b. Gauthier được mời họp mật
Năm 1872 tàu Bouragne chở Trung tá Hải quân Senez ra Bắc để dò xét tin tức cho một cuộc chiếm cứ Bắc Kỳ. Trong thư báo cáo của hạm trưởng Senez gởi cho Đô đốc Dupré chúng ta thấy có mời Giám mục Gauthier họp mật với vị sĩ quan Senez này: “... Vừa lên bờ tôi gửi ngay thư cấp tốc cho Giám mục Gauthier cách đó lối mười cây số và hẹn gặp ở trong làng. Chúng tôi sống suốt ngày giữa đám dân Thiên Chúa giáo, họ rất niềm nở với chúng tôi... Lúc 4 giờ, chúng tôi thấy một nhà truyền giáo, Cha Frichot đến nói chuyện với chúng tôi vì Giám mục đi vắng”.
Nguyên văn tiếng Pháp:
... Aussitôt débarqué, j'envoyai un exprès à Mgr. Gauthier qui habite à 10 ou 12 km et donnai rendez-vous au village. Nous passâmes la journée au milieu de cette population chrétienne qui fut très gracieuse envers nous... Vers 4 heures nous vimes arriver un missionnaire, le père Fricot qui en l'absence de Monseigneur venait causer avec nous (Cité par CHT, sđd, pp. 242-243).
c. Gauthier chủ trương dùng vũ lực
Thư đề ngày 12/2/1873, ngày 19/2/1873 gửi cho Đô đốc Dupré, Gauthier viết:
“Cuộc chiến này làm hao mòn tài chánh và giết hại những tinh hoa của dân tộc (dĩ nhiên là dân tộc Pháp, BK). Giám mục Gauthier viết như vậy và còn than phiền về những việc sách nhiễu con chiên. Theo tôi (giám mục Gauthier) khi nói đến triều đình Huế và quan lại. Các người đó chỉ có nghe theo tiếng nói của đại bác, còn thì điếc hẳn không nghe gì khác”. (Tức là giám mục khuyên nên dùng vũ lực với triều đình Huế mà không nên có một giải pháp nào khác, BK).
Nguyên văn tiếng Pháp:
Cette guerre ruine les finances et décime l'élite de la population, écrivait Mgr. Gauthier qui se plaignait en outre des vexations dont ses chrétiens étaient victimes. Il compte pour mois, poursuivait l'évêque, en parlant de la cour de Huế et de ses madarins - que ces gens n'entendront jamais que la voix du canon et resteront sourds à tout le reste. (Mgr. Gauthier à Dupré, 12/2/1873, et 19/2/1873, CHT, sđd, p. 250).
d. Gauthier muốn có một chính phủ Công giáo tại Bắc Kỳ (vui lòng xem Bùi Kha Ý kiến về bài Nguyễn Trường Tộ..., (xin xem thêm trên báo điện tử (http://www.honvietquochoc.com.vn) ngày 24/2/2010, mục Trao đổi).
e. Biến Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ: Chủ trương này cũng được Đô đốc Dupré chỉ trích là quá nguy hiểm (xin xem thêm báo điện tử Hồn Việt (http://www.honvietquochoc.com.vn) ngày 24/2/2010, mục Trao đổi).
Dupré viết: “Chắc chắn tôi sẽ không làm vừa lòng hoàn toàn Giám mục Gauthier được, ông ta quá hăng say và trong nhiều trường hợp tôi nhận thấy thật sự quá nguy hiểm nếu nhắm mắt nghe lời của ông giám mục này”.
Nguyên văn tiếng Pháp:
Il me sera certainement impossible de donner une entière satisfaction à Mgr. Gauthier; son ardeur est extrême, et en maintes circonstances, j'ai pu reconnaitre combien il serait dangereux d'accepter sans réserves les appréciations de ce prélat (Cité par CHT, sđd, trang 367).
Qua các dẫn chứng nêu trên, chúng ta có thể quả quyết rằng, đưa ra miếng mồi mở trường Kỹ thuật là một mưu chước đã được bàn luận kỹ lưỡng giữa tình báo Gauthier và NTT để thăm dò và phỉnh gạt triều đình. Do đó, nên nói: Việc mở trường Kỹ thuật không bao giờ có chứ không phải vì thế mà thất bại như Lm. Trương Bá Cần nhận định trong sách đã dẫn. Giả sử triều vua Tự Đức, hoặc ai đó, có điều kiện để mở trường Kỹ thuật thì chính Gauthier và NTT sẽ đập phá trước hết, vì nếu Việt Nam được giàu mạnh thì kế hoạch muốn đồng hóa và biến Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ của Gauthier bị thất bại sao?
D. NHÂN SỰ DÙNG VÀO VIỆC CANH TÂN
Di Thảo số 17, NTT lại còn táo bạo hơn lúc đề nghị nên Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân, ông viết: “Nay giám mục lên Kinh đô,… Nếu thật tâm tin nhau khẩn khoản yêu cầu, giám mục sẽ đưa các linh mục và đạo đồ, một số có khả năng am hiểu tiếng Tây, học qua một vài phương pháp của phương Tây như Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Nguyễn Lâu” (Dẫn theo TBC, sđd, trang 188).
Ảnh bìa của cuốn Nguyễn Trường Tộ: con người và di thảo
Nhưng các người mà NTT đề nghị lại có các “thành tích” phản quốc. Dưới đây là bằng chứng:
d1. Theo bài viết Nguyễn Trường Tộ học ở đâu, học giả Đào Duy Anh trong Tạp chí Tri Tân (số 7/ 1941, tr. 167) cho biết về NTT và Linh mục Nguyễn Hoằng như sau: “Nguyễn Trường Tộ học rộng nhưng viết và nói tiếng Pháp không thạo lắm, vì ông không chuyên học chữ Pháp ở Pê Năng (Trường huấn luyện thông ngôn ở Mã Lai, BK) như các ông Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Hoằng.
Bởi thế, không khi nào ông làm thông ngôn. Mà khi giúp việc cho súy-phủ thì chỉ làm việc từ-hàn (Lettré) cũng như Tôn Thọ Tường. Mỗi khi triều đình cần dùng người thông ngôn thì Nguyễn Trường Tộ cứ giới thiệu Nguyễn Hoằng (Lm. Hoằng) chứ tự mình không khi nào đảm đương việc ấy”.
d2. Về những người làm thông ngôn như Nguyễn Hoằng, thư ký như NTT, nhà sử học Cultru ghi lại như sau:
Đề đốc Rieunier nói: “Chúng tôi chỉ có những giáo dân và bọn du thủ du thực”.
Đại tá Bernard cũng viết với giọng khinh miệt: “… Người ta sẽ tuyển dụng trong số họ tất cả nhân viên hành chánh cần thiết cho địa phương hoặc những người giúp việc gia đình: làm đầy tớ, khuân vác, chạy giấy, và có những tên phiên dịch, hoặc những người ghi chép, được đào tạo thô sơ qua các nhà trường của Hội Truyền giáo, chính là qua sự tiếp xúc với những kẻ khốn nạn này mà quân đội thực dân mới đổ bộ lên làm quen với người Việt Nam” (NXT, SĐD).
d3. Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều cũng là Việt gian. Bằng chứng:
Theo cuốn Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ thì năm 1858, Giám mục Gauthier có đem theo vào Đà Nẵng cụ Khang, cụ Điều (người An Phú), cụ Huấn (người Trung Hậu), khi ấy cả ba ông chưa thụ chức Thầy cả. (TBC, SĐD, tr. 190).
- Sau này chúng ta chỉ thấy Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và Joannes Vị cùng đi Pháp với Giám mục Gauthier và NTT (1867-1868). (TBC, SĐD, trang, 90).
Gauthier dẫn họ đến đón giặc Pháp chiếm Đà Nẵng năm 1858:
d4.“Theo lời khai của một lang y (người thôn Thuận An, tổng Thanh Vân, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) tên Trần Vinh bị tàu Pháp bắt đem đi rồi sau trốn thoát được, kể lại thì ngày 10 tháng 9 (tức 16/10/1858), tàu Pháp (trên đó có Trần Vinh) đến đảo Nhãn Sơn, trước cửa Mành Sơn, để đón “Đức Thầy Huy và Cố Lý” (tức Giám mục Gauthier và Linh mục Croc, cũng có tên là Hậu và Hòa) nhưng “hôm qua hai vị đã lấy thuyền Nhà Chung với 8 người đi rồi”. Khi tàu Pháp trở về Trà Sơn, Đà Nẵng, thì thấy thuyền Nhà Chung đã ở đó rồi”. (Xem Châu bản Triều Nguyễn CBR 22/47).
Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà Nẵng, đứng đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp đánh chiếm thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài Gòn. Do đó, trước khi đem quân vào Sài Gòn, Đô đốc Rigault de Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào đầu năm 1859” (TBC, SĐD, trang 22).
... Nguyễn Trường Tộ có đi Pháp thì sớm nhất là giữa năm 1859 (14) mới tới nơi và khó có thể có mặt ở Hồng Kông đầu năm 1861 để cùng với Giám Mục Gauthier trở về Sài Gòn, theo yêu cầu của Đô đốc Charner viên chỉ huy được giao trách nhiệm gom quân để mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài Gòn” (TBC, SĐD, trang 22).
Nối kết các đoạn vừa dẫn, theo thứ tự thời gian chúng ta thấy, NTT và hai Linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều mà NTT đề nghị triều đình dùng vào việc canh tân thì tất cả ba ông, kể cả NTT, đều đã có mặt trong đám người làm áp lực để quân Pháp đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm (năm 1858). Năm 1861, ông cùng với tình báo Gauthier từ Hồng Kông trở về Sài Gòn theo yêu cầu của Đô đốc Charner... để mở rộng vùng chiếm đóng...
Sử liệu cũng cho thấy, sau khi NTT chết, năm 1871, ý kiến đề nghị “Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân” đã có “kết quả” như sau:
“... Sau khi Hàm Nghi lên ngôi đi kháng chiến, Chánh Mông sang tòa khâm sứ Pháp xin De Courcy để tên đại tướng giặc thương tình cho hai đội lính Pháp hộ tống sang thành nội làm lễ đăng quang lên ngôi hoàng đế, đặt ra niên hiệu Đồng Khánh thì ông vua bù nhìn này được sự cố vấn của Trương Vĩnh Ký và Linh mục Nguyễn Hoằng (Chức Ngự Tiền Hành Nhân) hợp cùng tay sai đắc lực Pháp như Nguyễn Hữu Độ, Phan Liêm... ra sức dùng mồi danh lợi kêu gọi nghĩa quân...” (Phong trào Nghĩa Hội Quảng Nam, trang 340). Cùng trang 340, Nguyễn Sinh Duy chú thích thêm:
“Còn Nguyễn Hoàng (có chỗ chép Hoằng), sinh 1839, người Hà Tĩnh, theo đạo Thiên Chúa, từng du học ở chủng viện Pénang, Mã Lai. Năm 1876, được cử làm Tham Biện Thương Chính ở Hải Phòng và Hải Dương; năm 1885, hàm Hường lô tự khanh kiêm Tham biện Viện Cơ Mật; năm 1886, giữ chức Phụ tá đại thần và Ngự tiền triều vua Đồng Khánh”.
Như thế, thời Đồng Khánh đã có ít nhất là một giáo sĩ Trương Vĩnh Ký (tu xuất, vui lòng xem Trương Vĩnh Ký thiên tài và nhân cách?! – Bùi Kha đăng trên Hồn Việt số 22) làm cố vấn cho Đồng Khánh, và Linh mục Nguyễn Hoằng làm chức Tham biện Viện Cơ Mật kiêm Phụ tá đại thần và Ngự tiền triều vua bù nhìn Đồng Khánh.
E. BỔ TÚC KẾ HOẠCH ĐÁNH ÚP GIA ĐỊNH, NTT viết ngày 9/2/1871:
Vì tình yêu tổ quốc và tự ái dân tộc, nên cụm từ Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định dễ khiến nhiều người có thiện cảm và kính trọng NTT. Nhưng sự thực như thế nào. Mời độc giả theo dõi:
Năm 1863, trong bài Thiên hạ đại thế luận ông đề nghị cho lính nghỉ ngơi để thực dân Pháp giữ bờ cõi cho mình. Năm 1868, La Grandière bất chấp lệnh của chính phủ ông là Không được chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ, nhưng y vẫn làm. Vua Tự Đức phản đối việc này và định cử sứ bộ qua Pháp tố cáo La Grandière đã lạm quyền và đòi trả lại 3 tỉnh mới chiếm. Nếu sứ bộ đi Pháp thì có thể 3 tỉnh ấy đã được trao trả, nhưng NTT viết bài chiêu dụ ngăn cản nhà vua.
Đến nay (1870), Pháp thua Phổ nhưng đã cho lính nghỉ ngơi từ lâu lấy ai để đánh? Ông cũng lại bày mưu đánh. Nhưng đề nghị bí mật tuyển người từ Bắc, Trung và một số khác tại địa phương để huấn luyện. Chúng ta cũng biết, thời NTT muốn mộ binh như thế phải có lương thực và “tân binh” phải đi bộ mất ít nhất là sáu tháng, chứ không phải đi máy bay hay xe hơi như ngày nay. Đã thế, NTT lại không hề đề cập đến các phong trào đang kháng Pháp tại Nam Kỳ của Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực hợp tác đánh thì trí ông để đâu, tâm ông ở chỗ nào? Chỉ bằng nghi vấn này thôi chúng ta cũng biết được con người ông. Trong bài chiêu dụ, có thêm vài chi tiết quan trọng:
a. Ông viết, tôi sẽ báo tin cho Giám mục Gauthier biết kế hoạch này.
b. NTT tiết lộ: Như lần trước, lúc tôi ở Gia Định, nguyên soái Gia Định đã nhiều lần muốn đem công việc Bộ Công giao hết cho tôi (TBC, sđd, tr. 327). Đô đốc La Grandière, tin dùng đến mức đem công việc Bộ Công giao hết cho ông.
c. NTT đưa mưu kế: Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dùng kế (Khoản này các câu bẩm trước chưa nói đến) phá đê ngăn nước thì các thuyền Tây ở mặt dưới, không kể lớn nhỏ đều bị chìm hoặc bị vùi dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã ba mà tan rã hết (TBC, SĐD, tr.330). Đọc đoạn này, có người đã ca tụng NTT là một chiến lược gia đại tài, biết dùng sức mạnh thiên nhiên để phá phương tiện địch. Nhưng quên rằng tại Gia Định và cả miền Nam thời bấy giờ và ngay cả bây giờ làm gì có sông nào, đê nào ngăn nước để NTT phá làm thuyền Pháp bị chôn dưới bùn?
d. Nếu ông đề nghị đánh gấp, thì ông có thể tạm gọi là một người yêu nước. Nhưng rất tiếc, ông viết: Kế hoạch này phải đòi hỏi khoảng hai năm mới thành (TBC, SĐD, tr. 331). Thời gian hai năm đã nói lên tâm chất của ông.
Nếu đánh bây giờ thì ta có thể sẽ thắng mà Pháp phải thua. Đó là điều mà NTT, những người theo Pháp và thực dân không bao giờ muốn! Chứng minh?
Một, như trên đã nói, NTT đề nghị sử dụng những thường dân (không phải lính) chiêu mộ từ Bắc, Trung, Nam chứ không kêu gọi nghĩa quân tại địa phương, người vừa có tinh thần chiến đấu vừa đã được huấn luyện và có kinh nghiệm..., làm sao thắng được?
Hai, lịch sử cho thấy nếu đánh vào giai đoạn sau tháng 9/1870 Việt Nam sẽ thắng. Dưới đây là sử liệu:
“Ở Âu châu, chiến tranh bùng nổ giữa nước Pháp và nước Phổ ngày 19/7/1870, nhưng mãi tới ngày 5/8/1870 tin ấy mới tới Sài Gòn. Cornulier-Lucinere vội cho tổ chức sự phòng thủ sông Sài Gòn vì sợ rằng Triều đình Huế thừa cơ hội mà tiến quân xuống miền Nam hay ra lệnh cho Lục tỉnh Nam Kỳ nổi loạn.
Song cả cho đến ngày 25/9/1870 là khi tin quân Pháp đại bại ở Sedan tới Sài Gòn, Triều đình Huế vẫn án binh bất động… Triều đình đã hoàn toàn không lợi dụng những nỗi khó khăn của Pháp khi nền đệ nhị thế chế sụp đổ thay thế bởi một chính thể cộng hòa, và khi mà quân Pháp bị cô lập ở Nam Kỳ” (Nguyễn Thế Anh, Việt Nam thời Pháp đô hộ, Lửa thiêng xuất bản, Sài Gòn 1970, tr. 66).
Tình hình chín muồi như vậy, nếu không đánh ngay thì mấy tháng sau đó phải đánh, nhưng NTT khuyên phải hai năm sau. Ông ta yêu nước nào mà lạ đến thế?
Nếu nhìn kế sách đánh úp Gia Định dưới khía cạnh tình báo, gián điệp và phản gián, chúng ta sẽ biết thêm dụng tâm khác của NTT. Mời độc giả đọc mục kế tiếp.
e. Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh; bằng đường ngoại giao: viết ngày 1 tháng 2/1871, và Kế hoạch đánh úp Gia Định; bằng vũ lực viết ngày 9 tháng 2/1871; cách nhau 8 ngày, mâu thuẫn với nhau và cũng được viết theo kiểu nước rút. Tại sao vậy? Vì tình hình chính trị và quân sự của Pháp quá nguy khốn như sử liệu dẫn trên cho thấy.
Tại chính quốc, Pháp bị tang gia bối rối vì thua Phổ. Triều đình Napoleon III bị giải tán, chính phủ mới chưa thành lập, một quốc gia vô chủ. Đó chính là thời điểm nghìn năm một thuở để đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nước bằng vũ lực, nhưng triều đình vua Tự Đức lại quá ngây thơ không chịu đánh.
Do đó, NTT hẳn được lệnh quan thầy phải gấp rút viết các bài chiêu dụ, để Chính phủ Việt Nam sử dụng con đường ngoại giao thay vì quân sự. Bằng đường ngoại giao, NTT đề nghị cử phái đoàn đi Pháp, đi Anh và Y-pha-nho (Tây Ban Nha) để vận động xin lại phần lãnh thổ bị chiếm, chứ không dùng vũ trang.
Tuy vậy, có lẽ khuyên theo kế sách ngoại giao trông lộ liễu và phi lý quá đáng! Hơn nữa, để cầm chắc triều đình Việt Nam theo con đường ngoại giao chứ không dùng võ lực, nên 8 ngày sau, NTT lại viết bài chiêu dụ Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định nhằm mục đích nhận diện xem ai ra mặt đánh, thì Pháp sẽ bắt ngay từ đầu. Và nhóm nào muốn đánh nhưng không thể bắt hoặc cản ngăn được thì khuyên không nên đánh bây giờ mà phải hai năm sau!
Nói gọn, thời vua Tự Đức có hai cơ hội tốt nhất để đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi. Cơ hội một là từ 1858 đến 1863. Nếu toàn dân và triều đình một lòng quyết chiến chứ không hòa thì Pháp đã có thể rút khỏi Việt Nam. Nhưng NTT khuyên nên cho lính nghỉ ngơi, hợp tác và để Pháp giữ bờ cõi cho mình! Cơ hội hai là từ tháng 9 năm 1870 đến nửa năm 1871, Pháp thua Phổ, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Pháp bị rối loạn. Đó là một cơ may hiếm có, nếu đánh thì có thể thắng, nhưng NTT khuyên nên theo đường lối ngoại giao. Tuy vậy, vẫn sợ quân đội Việt Nam có thể đánh, nên ông cũng bày ra chuyện đánh, nhưng không đánh bây giờ, mà phải hai năm sau.
Một số người hồ hởi ca ngợi, NTT bệnh nhưng phải gác chân lên để viết liên tiếp 7 bài trong vòng 3 tháng, nhưng thực sự 7 bài viết của ông từ tháng 2 đến tháng 5/1871 chỉ xoáy vào một trọng điểm mang tính sinh tử cho số phận, chiến lược và chính sách thuộc địa của Pháp là tránh, đừng để Việt Nam sử dụng vũ lực đối với quân Pháp tại Nam Kỳ. Và nếu để ý thêm, chúng ta sẽ thấy rằng hầu hết 58 bài chiêu dụ của NTT cũng chỉ nhắm vào hai điểm then chốt.
Một, bằng mọi cách, phải kêu gọi hòa và hợp tác chứ đừng bao giờ để quân dân Việt Nam dùng vũ lực đối với thực dân Pháp.
Hai, sử dụng tất cả các thủ đoạn chính trị lươn lẹo để đưa các ông giám mục linh mục gián điệp và Việt gian (tôi chỉ muốn nói đến mấy tên Việt gian mà thôi) lọt vào hầu hết các cơ quan công quyền nhằm tôn giáo hóa rồi Pháp hóa dân tộc ta. Để che đậy các âm mưu ấy, NTT phải giả vờ nguyền rủa Pháp, phải sử dụng những danh từ hoa mỹ như Canh tân, Đổi mới, Thực dụng, Kỹ thuật, phải bày ra chương trình này, kế hoạch nọ để tàng hình và đẩy triều đình theo con đường mà thực dân Pháp mong muốn.
Cũng thế, hành động của ông giống như ông Huỳnh Văn Trọng, một điệp viên tình báo cao cấp của miền Bắc, được gài vào chức cố vấn cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước năm 1975 tại Sài Gòn. Ông Trọng phải giả bộ nguyền rủa Bác Hồ và Đảng, phải chê bai các nước Cộng sản thậm tệ, phải năng nổ bày ra kế hoạch này chính sách nọ…, mới có thể che được mắt cơ quan tình báo của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã tin tưởng giao phó.
NTT được gán sai lầm là ông có sáng kiến canh tân và yêu nước nồng nàn, nhưng suốt tất cả 58 bản cái gọi là Điều trần chúng ta không thấy ông nhắc đến tên tuổi các nhà canh tân và yêu nước cùng thời như: Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện, Phạm Phú Thứ... và các sĩ phu yêu nước như: Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Quản Thanh, Quản Lịch, Nguyễn Trung Trực... mà chỉ thấy ông lặp đi lặp lại nhiều lần tên giáo hoàng, các giáo sĩ thực dân và giáo sĩ Việt gian. Tại sao vậy? Chúng ta nên nghe cuộc đối thoại giữa ông Toàn quyền de Lanessan và Giám mục Puginier như sau:
De Lanessan: Theo ông thì nước Pháp nên đối xử với tầng lớp sĩ phu như thế nào?
Puginier: Phải thủ tiêu họ đi.
De Lanessan: Tại sao?
Puginier: Vì các sĩ phu có một ảnh hưởng rất lớn, một uy tín rất lớn; họ được kính trọng mỗi khi họ ra làm quan, cho nên cần thiết phải thủ tiêu họ đi. Chừng nào tầng lớp sĩ phu còn, thì chúng ta còn phải lo sợ tất cả, bởi vì với lòng yêu nước nồng nàn, họ không thể nào chấp nhận nền đô hộ của chúng ta. Còn một điều nữa là chẳng ai trong họ chịu theo đạo Công giáo cả. (Nguyễn Xuân Thọ, SĐD, tr. 436-437).
Triều đình Huế ký hòa ước với Pháp năm 1874. Ảnh TL
TỔNG LUẬN
Dưới đây là một bức tranh khá chính xác về NTT:
1. Ý thức hệ chủ đạo: NTT phán: Tạo vật đã định như vậy, sao cưỡng được.
2. Lúc đất nước lâm nguy: tình trạng quân Pháp suy thoái nguy hiểm muốn rút về, ông khuyên triều đình cho lính nghỉ ngơi để Pháp giữ bờ cõi cho mình.
3. Về thế quốc tế: thương hiếu với giáo hoàng La Mã để Pháp dễ chiếm và đô hộ nước ta.
4. Cố vấn: ông tình báo Gauthier có thể giúp.
5. Mở trường kỹ thuật: được đưa vào 3 ông linh mục không có khả năng, còn ông Ca Xanh đòi lương quá cao và nhiều điều kiện không thể dùng.
6. Nhà giữ trẻ, viện mồ côi: Ông tình báo Gauthier sẽ cử người coi sóc để tạo một mạng lưới gián điệp cùng cả nước.
7. Canh tân đất nước: có 4 ông linh mục Việt gian phụ trách: Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và Nguyễn Lâu.
Như thế, tư tưởng chủ đạo, từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở, từ ông có thế lực đến gã cố vấn, nhân viên thừa hành đều do ngoại bang, tình báo và bốn giáo sĩ Việt gian điều khiển nhằm kế hoạch bủa một mạng lưới gián điệp và tôn giáo hóa toàn cõi Việt Nam.
Tôn giáo hóa toàn cõi Việt Nam thì sao? Sợ bị hiểu lầm tôi mượn ý kiến và nhận xét của những người Pháp có thẩm quyền để trả lời câu hỏi ấy một cách chính xác như sau:
Giám mục Puginier: Lúc nào Bắc Kỳ trở thành Công giáo thì nó cũng trở thành một nước Pháp nhỏ, và không có các giáo sĩ và giáo dân thì người Pháp như cua bị bẻ gãy hết càng.
Đô đốc Page: Không có một người Công giáo An Nam nào lại không muốn làm lính dưới cờ Pháp.
Công sứ Bonnal: Khi một ông giáo sĩ lập được một họ đạo thì giáo dân từ chối không đóng thuế,...không thừa nhận chính quyền Việt Nam.
Đô đốc Paul Bert: Nếu tất cả dân An Nam đều là Công giáo, thì chúng ta sẽ lãnh đạo họ một cách dễ dàng theo ý muốn của chúng ta.
CÔNG VÀ TỘI
Nhưng để được công bằng hơn, chúng tôi đề nghị công và tội của ông như sau:
Công:
1. Chỉ huy đào Thiết cảng thành công.
2. Làm được hai cái nhà thờ mặc dầu thời bấy giờ là chỗ để cho các giáo sĩ tình báo cư trú.
3. Có vài tư tưởng tiến bộ, có thể sử dụng được nằm rải rác trong một số bài như Cải cách phong tục, Thư gởi Tây soái, Về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng.
Tội:
1. Ngày 16/10/1858 cùng với các linh mục, giám mục Việt và Pháp làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm.
2. Năm 1861 làm thư ký và thông dịch cho Tổng hành dinh Pháp để mở rộng vùng chiếm đóng tại Sài Gòn.
3. Vai kề vai, lòng cạnh lòng với ông tình báo Gauthier hơn 20 năm, cùng với ông này thập thò núp bóng sau bức màn canh tân, để viết 58 bản chiêu dụ. Trong đó, ý của Gauthier, lời của NTT. Xuyên qua Gauthier, Pháp muốn NTT phải viết như thế nào, sử dụng những cụm từ hoa mỹ như canh tân, đổi mới, thực dụng, kỷ thuật, dân giàu nước mạnh, cải cách võ bị… nhưng lại lộng giả thành chơn và ngụy trang như thế nào, để có thể dụ được triều đình Việt Nam lọt vào các bẫy sập của Pháp.
Vì thế, nên chúng ta không lấy làm lạ là tại sao những ý kiến trong các bài chiêu dụ của ông vừa thích nghi với tình hình quân sự của Pháp, vừa mâu thuẫn với nhau.
4. Năm 1863, khuyên Triều đình cho lính nghỉ ngơi để Pháp giữ bờ cõi cho mình.
5. Dối trá trong việc mở trường kỹ thuật ở Huế.
6. Âm mưu đề nghị đào kênh từ Hải Dương vào Huế để toàn dân nổi loạn.
7. Đề nghị dùng các linh mục Việt gian vào việc canh tân đất nước.
8. Mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ và viện dưỡng lão do ông tình báo Ngô Gia Hậu cử người coi sóc. Lúc các tu sĩ có mặt khắp nơi, họ sẽ cải đạo người Việt trong vùng, rồi hô hào một cuộc tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi Việt Nam.
9. Năm 1868, ngăn cản triều đình cử phái bộ đi Pháp khiếu nại để lấy lại 3 tỉnh miền tây Nam Kỳ.
10. Năm 1870 thay vì phải đánh gấp để đuổi kẻ thù chung, NTT lại khuyên triều đình theo con đường ngoại giao, thay vì vũ lực. Và nếu sử dụng vũ lực, thì không nên thực hiện ngay mà phải hai năm sau để Pháp có thì giờ củng cố lực lượng.
Một con người như thế, tại sao có nhiều người nhầm lẫn để ca tụng ông bằng những danh từ cao quí? Tôi nghĩ có 3 lý do chính:
Một, thiếu sử liệu để đối chiếu những đề nghị của NTT với tình hình quốc nội và quốc tế lúc bấy giờ.
Hai, vài tác giả trích dẫn một số đoạn trong các bài chiêu dụ mà không đọc kỹ toàn bộ bài đó và lồng nó vào trong cái khung của tình hình thời đại lúc bấy giờ, để biết cái hậu ý của NTT là gì trong các bài chiêu dụ như Thiên hạ Đại Thế Luận, Lục Lợi Từ, Tế cấp bát điều, Kế hoạch đánh úp Gia Định...
Ba, phát xuất từ lòng yêu Tổ quốc, muốn cho dân giàu nước mạnh và thoát khỏi cái nhục bị đô hộ, nên các tác giả đã không tiếc lời ca ngợi những ai có tinh thần và có chương trình canh tân xứ sở. Thúc đẩy bởi tâm tình yêu nước đáng quí đó, nhưng lúc ca tụng NTT lại thiếu đối chiếu những đề nghị của ông với bối cảnh lịch sử thời bấy giờ, nhất là không phân tích cẩn thận để xem những hư thực và hậu ý của NTT thập thò sau bức màn canh tân là gì.
Thiết nghĩ, các cơ quan hữu quan có trách nhiệm với lịch sử dân tộc nên cử một chuyên ban nghiên cứu công và tội của một số người được vinh danh sai lầm trước đây, trong đó có NTT, rồi công bố cho quốc dân biết. Còn ý kiến của tôi dĩ nhiên là không tránh khỏi khiếm khuyết cần được các bậc cao minh chỉ giáo.
TS. BÙI KHA
(California)